Kỹ thuật nuôi cá vược (P2)
Thứ ba, 04/09/2018

Cá vược là loài có giá trịnh kinh tế cao, năng suất có thể đạt 5- 8 tấn/ha/vụ
Nuôi các vược nước lợ công nghiệp
Cá vược là loài có giá trịnh kinh tế cao, năng suất có thể đạt 5- 8 tấn/ha/vụ. Tuy vậy, việc nuôi cá vược công nghiệp ở nước ta hiện chưa được phát triển, mặc dù đã cho đẻ nhân tạo thành công loại cá này. Để đẩy mạnh nghề nuôi cá vược thử nghiệm với quy mô công nghiệp để từ đó phát triển mạnh hơn và tiến tới xuất khẩu.
Cá vược là loài có giá trịnh kinh tế cao, năng suất có thể đạt 5- 8 tấn/ha/vụ. Tuy vậy, việc nuôi cá vược công nghiệp ở nước ta hiện chưa được phát triển, mặc dù đã cho đẻ nhân tạo thành công loại cá này. Để đẩy mạnh nghề nuôi cá vược thử nghiệm với quy mô công nghiệp để từ đó phát triển mạnh hơn và tiến tới xuất khẩu.
.jpg)
Chuẩn bị ao nuôi
Đào vét, tu sửa ao
Ao nuôi phải có độ sâu khoảng 2,4m; nước luôn đảm bảo giữ ở mức 1,2- 1,5m; diện tích ao khoảng 350m2, có bờ cao hơn mặt bằng khoảng 20- 30cm. Bơm cạn nước ao, phơi khô; rải nilon xuống trùm khắp đáy ao và bờ ao, sau đó phủ một lớp đất cát pha bùn khoảng 10- 15cm để tránh nước bị phèn và thẩm thấu ra ngoài ao.
Đặt hệ thống nén khí
Đặt 2 đường ống nhựa có đường kính 20mm chạy dọc theo chiều dài của ao, dùng kim đan lưới dùi lỗ khoảng 10cm, sau đó nối với máy nén khí đặt trên bờ. Hệ thống nhựa được đặt chếch với mặt đất 3- 5cm. Thường xuyên kiểm tra đường ống, tránh rò rỉ giữa các khớp nối hay các ống bị vỡ làm ảnh hưởng đến khả năng nén khí. Phơi khô ao từ 3- 4 ngày, sau đó cho nước vào với mức nước khoảng 50cm (chú ý phải đặt tấm lưới để lọc nước). Sau đó bón phân hữu cơ (phân gà càng tốt) với liều lượng 500kg/ha. Sau hai ngày tiếp tục tháo nước vào ao đến 1,2- 1,5m và thả 20 cặp cá rô phi bố mẹ. Khi cá rô phi đẻ, thấy có cá bột trong ao thì tiến hành thả cá vược.
Thả cá, quản lý và chăm sóc
Thả cá
Cá có kích cỡ 5cm, thả vào ao nuôi với mật độ 4 con/m2; thức ăn chủ yếu là cá liệt tươi. Hai tháng đầu cho ăn với lượng 10% khối lượng cá trong ao kết hợp với cám gạo, nhằm tạo cho cá quen ăn thức ăn tinh. Tỷ lệ phối trộn 90% cá tạp băm nhỏ với 10% cám gạo nghiền nhỏ. Bốn tháng trước khi thu hoạch cho ăn từ 5- 8% khối lượng cá với tỷ lệ phối trộn là 70% cá, 30% cám. Thức ăn cho xuống từ từ; ăn 2 lần/ngày (6 giờ sáng và 16 giờ chiều).
Chế độ nước
2 tuần đầu chỉ thay nước 1 lần với lượng khoảng 40%; sau đó cứ 3 ngày thay một lần với lượng khoảng 50% nước trong ao. Định kỳ 1 tháng kiểm tra mức độ sinh trưởng của cá 1 lần (mỗi lần 30 con), qua đó tính toán lại lượng thứa ăn hàng ngày của cá. Kiểm tra chất lượng nước 1 lần/tháng; tiêu chuẩn chất lượng nước về ôxy hòa tan là 4- 9mg/l; độ pH từ 7,5- 8,5; nhiệt độ nước 26- 32 độ C; độ đục <10mg/l; độ mặn 8,0- 25%o.
Với thời gian nuôi 6 tháng thì có thể cho thu hoạch; trọng lượng cá thương phẩm đạt 500- 600gr/con; tỷ lệ sống từ 80- 85%, năng suất có thể đạt 7 tấn/ha. Cá vược có thể xuất khẩu sang Thái Lan, Indonesia, Hồng Kông…
Nuôi cá vược trong lồng
Nuôi cá vược trong lồng đang được phát triển nhiều nước như: Thái Lan, Indonesia, Philippines, Hồng Kông và Singapore; thành công của việc nuôi cá vược trong lồng trên biển và trên sông có ý nghĩa quan trọng cho việc phát triển của nghề này.
Chọn vị trí đặt lồng
Trong nuôi cá lồng, do chất lượng nước không thể kiểm soát được như trong các thủy vực ao, đầm mà tùy thuộc hoàn toàn vào tự nhiên; vì thế chọn lựa vị trí đặt lồng nuôi thích hợp sẽ có ảnh hưởng quyết định đến sự thành công của việc nuôi cá. Thông thường tiêu chuẩn lựa chọn vị trí nuôi được phân thành 3 nhóm yếu tố chính:
Nhóm các yếu tố liên quan đến sự sống của cá nuôi như nhiệt độ, độ mặn, mức độ nhiễm bẩn, vật chất lơ lửng, nở hoa của tảo, sinh vật gây bệnh trao đổi nước, dòng chảy, khả năng làm bẩn lồng.
Nhóm các yếu tố về độ sâu, chất đáy, giá thể…
Nhóm các yếu tố về điều kiện thành lập trại nuôi như phương tiện, an ninh, kinh tế xã hội, luật lệ…
Một vị trí tốt cho nuôi lồng cá biển cần thiết có:
Độ sâu phải đảm bảo đáy lồng cách đáy biển ít nhất 2- 3m; ít sóng to, gió lớn (tránh nơi sóng > 2m) và tốc độ dòng chảy nhỏ (dưới 1m/giây), nếu không sẽ làm hư hỏng lồng, trôi thức ăn, làm cá hoạt động yếu gây chậm lớn và dễ phát sinh bệnh.
Tránh nơi nước chảy quá yếu hay nước đứng (tốc độ chảy thích hợp từ 0,2- 0,6m/giây) mà có thể dẫn đến cá chết do thiếu ôxy, thức ăn thừa, mùn bã cũng tích lũy ở đáy lồng gây ô nhiễm.
Đảm bảo lượng ôxy từ 4- 6mg/lít, nhiệt độ 25- 30 độ C, độ mặn từ 27- 33%o. Cần tránh xa những nơi gây ô nhiễm dầu, ô nhiễm chất thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt và tàu bè qua lại nhiều; nơi có thể xẩy ra hồng triều.
Thiết kế và xây dựng lồng
Thông thường một dàn lồng có kích cỡ 6x6x3m và được thiết kế thành 4 ô để làm thành 4 lồng riêng biệt, như vậy mỗi lồng sẽ có kích cỡ 3x3x3m. Thiết kế trên sẽ thuận lợi cho việc thả giống được đồng loạt cho từng lồng, đồng thời với một lồng không nuôi cá sẽ dành để thay đổi lồng khi xử lý bệnh cho cá hay xử lý rong rêu bẩn bám trên lồng.
Mặc dù có thể sử dụng các vật liệu rẻ như tre, gỗ… để làm lồng, song lồng sẽ hay bị hỏng. Vì thế, chỉ nên làm khung trên của lồng bằng gỗ với kích cỡ thông thường loại 8x15cm. Khung đáy lồng dùng bằng ống nước đường kính 15/21 và được mạ kẽm để tăng tuổi thọ. Lưới lồng tốt nhất nên là PE không gút. Kích thước mắt lưới có thể thay đổi tùy vào kích cỡ cá nuôi (ví dụ cỡ cá 1- 2cm dùng mắt lưới 0,5cm; cỡ cá 5- 10cm dùng mắt lưới 1cm; cỡ cá 20- 30cm dùng mắt lưới 2cm và cỡ cá > 25cm, dùng mắt lưới 4cm).
Phao có thể là thùng nhựa (1x0,6m) hay thùng phuy để nâng khung gỗ của lồng. Số lượng phao có thể thay đổi tùy theo lồng (có nhà trên lồng hay không); lồng được cố định bằng neo ở 4 góc để tránh bị nước cuốn trôi.
Ngoài ra ở các vùng cạn ven bờ có thể phát triển kiểu lồng cố định bằng cách dùng lưới và cọc gỗ bao quanh khu nuôi.
Kỹ thuật nuôi và quản lý lồng
Trước khi thả giống vào lồng, cần phải thuần hóa để cá thích nghi với nhiệt độ và nồng độ muối trong lồng. Cá giống nên phân cỡ theo nhóm và nuôi trong những lồng riêng biệt. Nên thả cá vào lúc sáng sớm, hoặc chiều mát khi nhiệt độ thấp.

Mật độ thả cá thường từ 40- 50 con/m3; sau 2- 3 tháng nuôi cá đạt trọng lượng 150- 200g/con, lúc này giảm mật độ còn 10- 20con/m3. Tăng trưởng của cá khi nuôi trong lồng ở những mật độ khác nhau được ghi ở bảng sau. Nên dành một số bè trống để sử dụng khi cần thiết như chuyển cá giống hay đổi lưới cho lồng nuôi khi bị tắc nước do bẩn bám.
Bảng tăng trưởng (g/con) hàng tháng của cá nuôi lồng ở các mật độ khác nhau
Thời gian nuôi (tháng) |
Mật độ (con/m2) | ||
16 | 24 | 32 | |
0 | 67.8 | 67.8 | 67.8 |
1 | 132 | 138 | 139 |
2 | 225 | 229 | 226 |
3 | 263 | 268 | 264 |
4 | 326 | 332 | 312 |
5 | 381 | 385 | 359 |
6 | 499 | 487 | 455 |
Thức ăn và cách cho cá ăn
Thức ăn hiện nay đang là vấn đề lớn mà nghề nuôi cá vược phải đương đầu. Hiện tại, cá tạp là nguồn thức ăn được dùng duy nhất cho cá vược. Cá tạp được băm nhỏ cho ăn 2 lần mỗi ngày vào buổi sáng (8 giờ) và buổi chiều (17 giờ) với tỷ lệ 10% trọng lượng thân trong 2 tháng đầu. Sau 2 tháng chỉ cho ăn 1 lần/ngày vào buổi chiều với tỷ lệ 5% trọng lượng thân. Chỉ cho cá ăn khi cá bơi lội gần mặt nước.
Do nguồn cá tạp ngày càng hiếm và đắt, nên cám gạo và tấm được dùng trộn thêm vào thức ăn để giảm lượng cá. Tuy nhiên giá thành thức ăn vẫn còn cao. Phối trộn nguyên liệu làm thức ăn có thể 7/3 (cá tạp 70%, cám, tấm 30%).
Một bước phát triển mới trong thời gian gần đây trong việc cải tiến khẩu phần ăn của cá vược là sử dụng thức ăn ẩm. Tuy nhiên việc sử dụng thức ăn này vẫn còn trong giai đoạn thực nghiệm, thành phần thức ăn như sau:
Thành phần | Phần trăm (%) |
Bột cá | 35 |
Cám | 20 |
Bột đậu nành | 15 |
Bột bắp | 10 |
Bột lá | 3 |
Dầu mực (hoặc dầu cá) | 7 |
Tinh bột khuấy hồ | 8 |
Hỗn hợp Vitamin | 2 |
Bảng phân phối và khẩu phần thức ăn ẩm
Quản lý lồng cá
Cần phải thường xuyên theo dõi lồng; do luôn ngập nước, do đó lồng có thể bị phá hoại bởi các động vật thủy sinh như cua, rái cá… Nếu lồng bị hư hỏng phải lập tức sửa chữa hoặc thay mới.
Ngoài quá trình bám sinh học, lưới lồng còn là nơi dễ bị kín và lắng đọng phù sa; đây là vấn đề không thể tránh khỏi vì lưới có bề mặt thuận lợi cho các vi sinh vật lưỡng thê, giun nhiều tơ, động vật chân tơ và nhuyễn thể… bám vào. Những vật này có thể bám kín vào lưới làm giảm sự trao đổi nước, có thể gây sốc cho cá do ôxy hòa tan thấp, đồng thời tích thụ những chất cặn bã; vì thế sẽ ảnh hưởng đến tính ăn và sức tăng trưởng của cá.
Cho đến nay, việc vệ sinh lưới theo phương pháp cơ học vẫn là hiệu quả và rẻ nhất. Ở những vùng có nhiều sinh vật gây bám cần sử dụng lồng lưới luân phiên nhau.
ĐH (Theo Viện Thủy sản- Đại học Cần Thơ)
Tags
Bài viết cùng chuyên mục
- Việt Nam có thuốc y học cổ truyền đầu tiên điều trị Covid-19
- Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới 2023: Thúc đẩy đổi mới sáng tạo
- Na Uy mở đường hầm dài nhất thế giới cho xe đạp
- Ngày mai có thể quan sát nhật thực lai hiếm gặp
- Phó giáo sư Việt làm hệ thống sạc không dây cho ôtô điện
- Thủ tướng: 'Tập trung nhân lực cho công nghệ chip, vi mạch là hướng đi đúng'
- Tuổi Trái Đất được tính như thế nào?
- Ngoại trưởng Mỹ xem trình diễn robot tại Đại học Bách khoa Hà Nội
- Vì sao khi huấn luyện mô hình ChatGPT cần tới 700.000 lít nước?
- Ảnh chụp chưa từng có về 'tinh vân con cua'
Đăng nhập để gửi bình luận
Bình luận