Lựa chọn giống bò thịt

Thứ ba, 08/03/2016

Chọn giống là một khâu quan trọng trong chăn nuôi. Giống tốt sẽ cho năng suất cao, khả năng sinh sản tốt.
1. Phương pháp chọn và phối giống cho bò
Chọn giống là một khâu quan trọng trong chăn nuôi. Giống tốt sẽ cho năng suất cao, khả năng sinh sản tốt. Mỗi cá thể bò được chọn làm giống phải có thân hình phát triển đồng đều, lông da bóng mượt, đầu cổ thanh, tư thế bốn chân vững...
Chọn bò cái nền
Dùng bò cái ta vàng để làm bò nền sẽ không đạt hiệu quả kinh tế cao vì bò vàng chỉ có trọng lượng khoảng 180kg. Vì vậy phải cải tạo bò vàng thành bò lai Sind để làm bò nền, sau đó cho lai với bò cao sản thịt, sữa.
Chọn bò đực giống
Chọn bò đực có tầm vóc lớn, thân trước phát triển, u vai nôi cao, yếm rộng, vai mông nở nang, 4 chân vững chắc, tinh hoàn phát triển cân đối, khôi lượng trung bình từ 400 - 500kg. Bò đực phải có tính hăng, linh hoạt, nhảy khỏe, tỷ lệ thụ thai cao.
Do không có điều kiện để nhập bò đực Sind thuần, nên biện pháp tốt nhất là gieo tinh nhân tạo, dùng bò
Sind để phối với bò cái lai Sind, nếu không thì có thế sử dụng các bò đực lai Sind có tỷ lệ lai máu cao để làm bò đực giống.
Phương pháp phối giống
-  Gieo tinh nhân tạo:
Phương pháp này sử dụng tinh viên bò Sind hoặc các giống bò cao sản khác cho bò cái nền. Nó có ưu điểm là tạo được những bò lai phẩm chất cao, ngăn ngừa những hiện tượng trùng huyết và bệnh truyền nhiễm. Tuy nhiên phương pháp này đòi hỏi phải có kỹ thuật cao và người nuôi bò phải biết cách phát hiện đúng thời gian bò lên giống để kỹ thuật viên tiến hành gieo tinh cho bò.
- Phối giống tự nhiên (phối trực tiếp):
Phương pháp này sử dụng bò đực giống đả chọn lọc để phối trực tiếp cho bò cái nền. Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản, thích hợp với các khu vực xa dân cư. chăn nuôi còn chưa phát triển. Đối với phương pháp này việc chọn lọc giống rất quan trọng, cần phải thay đổi đực giống sau một thời gian sử dụng để tránh hiện tượng trùng huyết sẽ làm cho bò con có khả năng sinh sản kém, dễ mắc bệnh tật.
- Cách phát hiện bò lên giống (động đực)
Chu kỳ lên giống (động đực) của bò cái từ 18-21 ngày. Khi bò cái lên giống thường có những biểu hiện bên ngoài như bỏ ăn, hụ rông, nhớn nhác, nhảy chồm lên lưng bò khác, âm hộ sưng đỏ cháy nước nhòn.
Nếu phát hiện bò cái có biểu hiện lên giống cần báo ngay cho kỹ thuật viên gieo tinh hoặc cho phối hợp với bò đực ngay sau khi phát hiện bò lên giống.
Các phương pháp nhân giống bò thịt
- Nhân giống thuần chủng là giao phối giữa đực và cái giống cùng một giống để có đời con mang đặc Lính của giống đó, phương pháp này thường sử dụng khi muốn giữ lại và cải tiến những phẩm chất tốt của giống vốn có. Trường hợp cá thể phối giống thuộc dòng khác nhau được gọi là phương pháp phối giống chéo dòng. Phương pháp này được tiến hành để nâng cao đặc tính của dòng khi được dòng khác bổ sung.
- Lai tạo là dùng bò các giống khác nhau giao phối với nhau, bê đẻ ra có máu nhiều giống.
- Lai cải tạo (lai cấp tiên):
Dùng giống cao sản cho lai cải tạo căn bản một giống khác năng suất thấp, chất lượng kém. Ở nước ta thường nhập giống cao sản cho lai với giống bò nội.
Cần chú ý chọn giống bò cái tạo có khả năng để thích nghi với điều kiện chăn nuôi mới, chọn phối phải có mục đích và tiêu chuẩn, chăm sóc tốt con lai.
+ Lai pha máu (lai cải tiến):
Phương pháp này áp dụng cải tiến một phẩm giống, con lai giữ nguyên được đặc tính cơ bản của giống.
+ Lai gây thành (lai phối hợp):
Phương pháp này không có cơ sở nhất định mà căn cứ vào mục tiêu gây giống đã được xác định. Dùng các giống khác nhau giao phối với nhau, khi có con lai đạt yêu cầu thi cho tự giao đẽ tạo thành giống mới.
+ Lai kinh tế:
Là phương pháp lai giữa hai cá thể thuộc hai dòng khác giống, hai giống khác nhau để tạo con lai F1 có năng suất và hiệu quả kinh tế cao hơn, không dùng để làm giống. Phương pháp này thưòng được áp dụng trong chăn nuôi bò thịt.

2. Một số đặc điểm sinh sản của bò cái
Phối giống và sinh sản
- Đặc điểm sinh sản của bò cái:
+ Tuổi bắt đầu phối giống L8 - 24 tháng.
+ Thời gian mang thai 280 - 290 ngày (9 tháng 10 ngày).
+ Thời gian động dục trở lại sau đẻ 2 - 3 tháng
+ Chu kỳ động dục 20 ngày (17 - 23 ngày), thời gian động dục 24 - 36 giờ.
- Những biểu hiện chủ yếu khi bò động dục - (3 giai đoạn)
+ Giai đoạn bắt đầu động dục (G - 10 giờ):
Con vật ở trạng thái khác thường, băn khoăn ngơ ngác, kêu rông, chạm sừng nhai, thích gần và ngửi âm hộ con khác, không cho con khác nhảy lên lưng. Âm hộ sưng, hơi mả, có màu hồng.
+ Giai đoạn giữa động dục (12 - 16 giờ):
Con vật ở trạng thái hưng phấn cao độ, thích nhảy lên lưng con khác, sau đứng yên đế con khác nhảy lên, ít ăn uống hoặc bỏ hoàn toàn. Âm hộ hơi mở, màu đỏ hồng, có niêm dịch keo dính màu trắng, chảy thành dòng, sau tạo thành dây keo dính lòng thòng hoặc dính bết vào mông.
+ Giai đoạn cuối động dục (6 ' 10 giờ):
Không cho con khác nhảy lên, trạng thái thần kinh và ăn uống trở lại bình thường.
Thời điểm phối giống thích hợp nhất là vào giai đoạn giữa động dục:
+ Bò cái có biểu hiện chịu đực: đứng yên cho bò khác nhảy lên (tư thế đi dạng chân, cong đuôi).
+ Âm hộ nhỏ dán lại, niêm mạc chuyến từ đo hồng sang hồng nhạt.
+ Niêm dịch ở trạng thái keo dính
Phối giống:
+ Xác định thời gian phối giống thích hợp.
+ Sử dụng quy luật phối sáng - chiều:
  • Sáng phát hiện động dục - chiều phối giống.
  • Chiều phát hiện động dục - sáng sớm hôm sau phối giống.
- Công thức phối giống:
+ Dựa vào mục đích sản xuất để lựa chọn công thức phối.
+ Nuôi bò hướng thịt: chọn đực giống mang máu thuộc nhóm giống bò Zêbư như: Red Shindhi, Brahman, Sahiwal... (thuần hoặc lai).
+ Nuôi bò hướng sữa: chọn đực giống mang máu thuộc nhóm hướng sữa như: Holstein Ffizer, nâu Thụy Sv... hoặc bò kiêm dụng như: Sahiwa). Red Sindhi...
+ Chú ý: không nên sử dụng bò đực cái của địa phương cho phối giống vì thế hệ sau sẽ lớn chậm, tầm vóc nhỏ, cho sửa ít.
- Phương pháp phối giống:
Khi phát hiện bò cái động dục, sử dụng 1 trong 2 phương pháp sau để phối giống:
+ Thụ tinh nhân tạo: phương pháp này có nhiều ưu điểm vì sử dụng được tinh bò ngoại có chất lượng phẩm giống cao, hạn chế lây lan dịch bệnh... Tuy nhiên cần có các dẫn tinh viên chuyên trách và cản được thực hiện ở những nơi có điều kiện cho phép.
+ Nhảy trực tiếp: Dùng bò đực giống tốt, to, khoẻ, ngoại hình đẹp, không quá già. không quá non cho phối giống trực tiếp với bò cái động dục.
Chú ý: Cần quản lý chặt, bò cái, không để giao phốì tự do. sớm thiến những bò đực cóc kém phẩm chất ớ trong đàn hoặc trong vùng.
Không cho phổi giống những bò đực và cái có quan hệ huyết thống gần như cha mẹ, con cháu, anh em cùng cha mẹ.
Nên phối kép 2 lần cách nhau 6 giờ để đảm bảo cho bò có chửa.
- Chẩn đoán thai:
+ Sau khi phối tinh, nếu quan sát thấy bò không động dục trở lại, hay ăn ngủ nhiều, bầu vú phát triển, gân bụng và vú nổi dần, bụng to ra... là có thể bò có chửa.
+ Có thể sử dụng phương pháp khám thai qua trực tràng. Đây là phương pháp có độ chính xác cao nhúng phái cần đến cán bộ thú y có tay nghề.
- Đỡ đẻ:
+ Bò sắp đẻ có trạng thái: Bụng to, nặng nề, vú căng (có sữa non). Trước đẻ 2 - 3 ngày âm hộ sưng chảy, sụt mông... Chuẩn bị đỏ hay lỉnh đi ăn riêng, trạng thái lo lắng, hay cào nền chuồng...
+ Bò đẻ bình thường:
Thai ở 1 trong 2 trường hợp sau:
  • Thai thuận đầu: Thai dọc đầu. thân nằm sấp, đầu và mõm gác lèn 2 chân trước. Khi đẻ 2 chân trước ra trưóc, đế móng ỏ phía dưới.
  • Thai thuận đuôi: Thai dọc đầu, thân nằm sấp, đuôi thai nằm ở giữa 2 chân sau, duỗi thẳng. Khi đẻ 2 chân sau ra trước, đuôi nằm giữa 2 chân sau, đê móng ở phía trên.
Bò đẻ bình thường nên để đẻ tự nhiên, bò mẹ tự chăm sóc con sau khi đẻ. Chủ bò chỉ hỗ trợ lôi bê ra và lấy nhau thai đem huỷ.
+ Bò đẻ không bình thường:
  • Các tư thế thai nằm không bình thường.
' Thai quá to.
  • Thai bị chấn thương, bệnh tật mà chết lưu hoặc yếu dạ con không đẻ được.
Trong trường hợp này cần mồi cán bộ thú y đến can thiệp kịp thời.
Cách tính ngày sinh cho bò
Biết trước được ngày sinh của bò để có cách chăm sóc tốt nhằm đảm bảo sức khỏe an toàn cho cả bò mẹ lẫn bê non là điều người chăn nuôi cần đặc biệt chú ý.
Bò mang thai 280 ngày (hơn 9 tháng), vì vậy muôn tính được ngày sinh của nó cần tính từ ngày phối giống cộng thêm 280 ngày. Cách tính như sau:
+ Lấy ngày phối giống bò cộng với 5 hay 7 ngày (có thể vào tháng 2 có 28 ngày) và lấy tháng phối giống cộng với 9, sẽ có ngày sinh dự kiến. Ví dụ: Bò phối giống lần cuốì vào ngày 10 tháng 2 năm 2007. thì ngày sinh sẽ là: 10 + 7 ngày = ngày 17: tháng sinh sẽ là: Tháng 2 + 9 tháng = tháng 11 (bò sẽ sinh vào ngày 17 tháng 11 năm 2007). Bò cũng cổ thể sinh sớm hơn hay muộn hơn một vài ngày so với dự kiến do đó cần theo dõi các biểu hiện của bò mẹ trước ngày sinh dự kiến từ  1 tuần đến 10 ngày.
- Biểu hiện bò sắp sinh:
Khoảng 7 - 10 ngày trước khi sinh, bầu vú từ từ căng lên, núm vú căng cứng chứa đẩầ sữa là bò sắp đẻ, vì vậy cần chú ý theo dõi để phòng viêm vú trước khi sinh. Từ 1 - 3 ngày trước khi sinh, âm hộ chảy ra nhìều dịch nhờn đặc, màu trắng. Khi thấy dịch nhờn loảng dần là bò sắp đẻ. Khi quan sát thấy hiện tượng sụp mông ở 2 bên gốc đuôi, đuôi lệch sang một bên và ít cử động; trạng thái bồn chồn, hay đứng lên nằm xuống, đại tiếu tiện nhiều lần là bò sắp đẻ.
Biểu hiện bò khó sinh: Rặn nhiều, vỡ ối nhưng vẫn không thấy thai ra. Nếu bê con lộ ra sau 3 giờ mà vẫn chưa ra được, hoặc bê con ló ra ở tư thế không bình thường thì cần gọi cán bộ thú y can thiệp kịp thời.
Chậm sinh ở bò và cách phòng trị bệnh
Trong thực tế có thể gặp một số bò tơ trên 18 tháng tuổi và trọng lượng trên 250kg nhưng không có biểu hiện lên giống. Người ta gọi trường hợp này là vô sinh hoặc chậm sinh, cần xem xét các nguyên nhân sau:
+ Bò bị viêm nhiễm hoặc bị bệnh ở cơ quan sinh dục, bệnh này gây ra bởi vi trùng và kí sinh trùng.
+ Do quản lí và nuôi dưỡng kém. Thức ăn thiếu vitamin A, thiếu khoáng (phô't-pho, đồng...), cho ăn quá thừa hoặc quá thiếu một cách bất thường. Cũng có thể bò lên giống thầm lặng (không rõ rệt) và khó phát hiện.
+ Bò bị rổì loạn nội tiết (hormon), thí dụ như hàm Lượng Oestrogen thấp nên bò không thể hiện ra ngoài biểu hiện động dục.
+ Do khuyết tật di truyền như lưỡng tính, nửa đực nửa cái.
Gặp trường hợp này cần chú ý quản lí và nuôi dưỡng cho tốt, nếu bò vẫn không lên giống thì nhờ nhân viên thú y thăm khám và xác định ngưvên nhân, rơi vào nguyên nhân cuối thì phải loại thải.
Thông thường thì sau khi sinh 3 tháng bò mẹ sẽ lên giống lại và phải đậu thai không quá 3 lần phối giống. Không đạt được yêu cầu trên cũng gọi là chậm sinh hoặc vô sình. Trường hợp này cũng cần phải xem xét các nguyên nhân như trên đối với bò tơ.
Phương pháp rút ngắn khoảng cách lứa đẻ:
Thông thường thời gian mang thai của bò cái là 275 - 285 ngày, khoảng cách lứa đẻ kéo dài khoảng 3 năm. Sau khi đẻ, bò động dục trở lại tùy thuộc ở kỹ thuật chăn nuôi, chăm sóc tốt, đúng quy trình kỹ thuật hoặc kém. Để rút ngắn khoảng cách lứa đẻ phải tuân thủ những quy trình chăn nuôi hợp lý hoặc phải tác động để rút ngắn khoảng cách từ khi bò đẻ đến khi phối giống có chửa xuống còn khoảng 2 - 3 tháng. Trong điều kiện bình thường thì bò động dục trở lại chỉ mất khoảng 40 - 50 ngày sau khi đẻ.
Khoảng cách lứa đẻ dài hay ngắn có nhiều nguyên nhân. Khoảng cách lứa đẻ thường kéo dài đến 390 - 420 ngày, thậm chí là hòn, để khắc phục được tình trạng này cần chú ý:
+ Vào giai đoạn cai sữa và ngay sau khi đẻ, nuôi bò cái hợp lý phù hợp với nhu cầu bò.
+ Chuẩn bị và chăm sóc chu đáo bò cái vào lúc đẻ (chuồng-trạì sạch sẻ, đảm bảo các điều kiện vệ sinh và hộ lý tốt).
+ Sau khi bò đẻ nên thụt rứa tử cung bằng dung dịch Riyanol hoặc Lugol với tỷ lệ: Nếu dùng dung dịch Rivanol 1 - 2% khoảng 300 - 500ml; nếu Lugol 100ml (dung dịch Lugol là hỗn hợp 12, KI và nước cất theo tỷ Lệ 1:2:300); nếu dùng nước muôi dung dịch 1 - 2% khoảng 300 - 500ml. Sau đó đưa một trong các loại kháng sinh phô rộng vào thẳng tử cung. Oxytetracy - line 2,5g pha với 30 ml nước hoặc Kanacyline 3g pha với 30 ml nước, hoặc Ampicyline 2 - 3g pha với nước.
+ Kết hợp tiêm bắp toàn thân hàng ngày (5 ngày liền), thuốc dùng tiêm là gentanyline lml cho 10kg thể trọng hoặc Ampi - seplol lml cho 10 - 12kg thể trọng.
+ Trường hợp đẻ khó, sót nhau hoặc bị viêm nhiễm đưòng sinh dục cần can thiệp và điều trị kịp thời để bò sám phục hồi chức năng sinh sản.
+ Chọn lựa và sử dụng loại tinh chất lượng tốt để phổi cho bò cái động dục đúng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo, đặc biệt là phối giống vào thời điểm thích hợp.
Khắc phục bệnh chậm sinh và vô sinh:
Hiện tượng chậm sinh và vô sinh có thể gặp ớ bò cái tơ trên 2 năm tuổi hoặc ở bò cái sau đẻ 3 - 5 tháng nhưng không thấy động dục trở lại. Có nhiều nguyên nhân gây ra hiện tượng này:
+ Với bò cái to: Nguyên nhân có thể là do tử cung buồng trứng kém phát triển, không có tử cung hoặc  buồng trứng có khôi u nằm trên buồng trứng hoặc do chế độ dinh dưỡng kém. đặc biệt là các chất khoáng, vitamin A dần đến rối loạn nội tiết, cũng có thể do viêm nhiễm đường sinh dục. Trong trưòng hợp này người chăn nuôi cần xác định rõ nguyên nhân để có biện pháp điều trị phù hợp.
Nếu do bị bệnh từ bệnh dị hình khiếm khuyết thì không có cách chữa trị. cần loại bỏ. Nếu trường hợp khác thì chữa trị bằng kháng sinh hoặc cải thiện chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng khẩu phần, sử dụng hormon đế tác động lên bò.
+ Với bò cái trưởng thành: Nguyên nhân do chăm sóc nuôi dưỡng kém. mất cân đối hoặc thiếu thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần dẫn đến tình trạng bò gầy yếu, bò ít được vận động, có các bệnh như u nang buồng trứng, viêm tứ cung, thể vàng tổn lưu dẫn đến rối loạn hoặc thiêu hormon sinh sán. Cũng có thể do bò sữa đẻ lứa đầu có san lượng lớn hoặc bê con của nó đang bú sữa.
Để khắc phục tình trạng này hiệu quả. trước hêt cần xác định rõ nguyênn nhân, cẩn theo dõi xem bò cái sữa không động dục thực sự hay động dục thầm lặng, có thể sử dụng cách dùng bò đực thi tình dể áp dụng biện pháp thích hợp.
Nếu bò đẻ lứa đầu và năng suất sữa cao thì phải chờ thêm thời gian. Trong thời gian này, không cho bô con bú sữa mẹ. Nếu bò gầy yếu do nuôi dưỡng cần phải tăng khẩu phần giàu hàm lượng các chất đạm, đường, vitamin, khoáng... Cũng có tểẻ kết hợp chăn thả trên bãi cỏ để bò có đíều kiện vận động tiếp xúc với môi trường bên ngoài.
Nếu xác định nguyên nhân bò cái không động dục do ung thư buồng trứng (có thể là u nang hay u nang thể vàng) có thể tiêm Prostaglandin (2ml chế phàm estrumate) trong trường hợp nang thể vàng.
Trường hợp bò bị viêm tử cung với thể vàng tồn lưu thì biện pháp điều trị tốt nhất cũng là tiêm Prostalandin hoặc các chất tương tự (2ml chế phâm estrumate) để làm tiêu biến thể vàng, giảm hàm lượng prosgestaron và tăng hàm lượng estrogen trong máu.
Hiện tượng bò không động dục lại
Tình trạng không động dục lại sau khi sinh ở bò cái chủ yếu là do mất khả năng phân tiết hormon LH và •trứng không chín. Hiện tượng này ở bò trước đây chưa có hướng giải quyết nhưng hiện nay người ta đã tìm ra dụng cụ có tên Cue-mate đặt vào phía trong bộ phận sinh dục của bò, dụng cụ này có tác dụng làm tăng hàm lượng prog esterone huyết thanh để bù đắp sự thiếu hụt hormon LH tuyến yên.
Khi tháo bỏ dụng cụ Cue-Mate, hàm lượng progesterone nhanh chóng giảm thấp và kích thích trứng chín, do vậy, gây nên hiện tượng lên giống và rụng trứng. Việc tiêm oestradiol ben - zoate (lmg) 24 giờ sau khi tháo bỏ Cue- mate có tác dụng kích hoạt sự phân giảm hormon LH và tăng hành vi động dục. Bò sẽ động dục và phải được phối giống 2 - 5 ngày sau khi tháo bỏ Cue - mate.
Cách sử dụng: kiểm tra bò không lên giống lại sau khi sinh và áp dụng điểu trị bằng dụng cụ Cue - mate:
  • Ngày đầu tiên: Đặt Cue-mate cho bò không động dục cần được điểu trị.
  • Ngày thử 6: Tháo Cue-mate ra khỏi âm đạo.
  • Ngày thứ 7: Tiêm lmg oestradiol benzoate.
  • Ngày thử 8-11: Gieo tinh cho bò có dấu hiệu động dục.
NTL tổng hợp (Theo NXB Thời đại)
 

Bình luận


Tiêu điểm

Video nổi bật

×