Ngành bò sữa Việt Nam qua các thời kỳ
Thứ sáu, 04/03/2016

Việt Nam vốn không có ngành chăn nuôi trâu bò sữa truyền thông nên không có các giống trâu bò sữa chuyên dụng đặc thù nào. Chăn nuôi bò sữa xuất hiện ở Việt Nam từ những năm đầu cúa thế kỷ XX.
Việt Nam vốn không có ngành chăn nuôi trâu bò sữa truyền thông nên không có các giống trâu bò sữa chuyên dụng đặc thù nào. Chăn nuôi bò sữa xuất hiện ở Việt Nam từ những năm đầu cúa thế kỷ XX.
Trải qua những năm tháng khó khăn của đất nước, ngành chăn nuôi bò sữa đã đóng góp đáng kể trong việc đảm bảo nhu cầu lương thực thực phẩm cho sự phát triển cùa đất nước. Tuy nhiên ngành chăn nuôi bò sữa mới chỉ thực sự trở thành ngành sản xuất hàng hóa từ những năm 1990 trở lại đây.
Trải qua những năm tháng khó khăn của đất nước, ngành chăn nuôi bò sữa đã đóng góp đáng kể trong việc đảm bảo nhu cầu lương thực thực phẩm cho sự phát triển cùa đất nước. Tuy nhiên ngành chăn nuôi bò sữa mới chỉ thực sự trở thành ngành sản xuất hàng hóa từ những năm 1990 trở lại đây.
Giai đoạn từ 1920 - 1923:
Giống bò chịu nóng Red Sindhi (thường gọi là bò Sin) và bò Ongle (thường gọi là bò Bô) có nguồn gốc từ pháp được đưa vào Tân Sơn Nhất, Sài Gòn và Hà Nội để nuôi thử và lấy sữa để phục vụ cho nhu cầu của người Pháp ở Việt Nam. Tuy nhiên số lượng bò sữa thời đó còn ít (khoảng 300 con) và năng xuất sữa thấp (2 - 3kg/con/ngày).
Giai đoạn từ 1937 - 1942:
Hình thành một sô' trại chăn nuôi bò sữa ở Sài Gòn ~ Chợ Lớn, mỗi ngày sản xuất được hàng nghìn lít sữa và tổng sản lượng sữa đạt trên 360 tấn/năm. Có 6 giống bò sữa đã được nhập vào miền Nam. bao gồm Jersey. Ongole, Red Smdhi, Tharpara, Sahiwal và Haryana.
Cũng ở miền nam trong những giai đoạn này, Chính phủ Australia đã giúp đỡ xây dựng Trung tâm bò sữa thuần Jersey tại Bến Cát với số lượng 80 bò cái. nhưng do điểu kiện chiên tranh Trung tâm này san đó đã giải thể. Bò lai hướng sữa và bò sữa nhiệt đới về sau được nuôi tại Tân Bình, Gò Vấp, Thủ Đức tại những trại bò sữa do tư nhân quan lý với quy mô nhỏ từ 10 - 20 con), sản xuất sữa tươi cung cấp cho các nhà hàng và trực tiếp cho người tiêu dùng là chính.
Cũng ở miền nam trong những giai đoạn này, Chính phủ Australia đã giúp đỡ xây dựng Trung tâm bò sữa thuần Jersey tại Bến Cát với số lượng 80 bò cái. nhưng do điểu kiện chiên tranh Trung tâm này san đó đã giải thể. Bò lai hướng sữa và bò sữa nhiệt đới về sau được nuôi tại Tân Bình, Gò Vấp, Thủ Đức tại những trại bò sữa do tư nhân quan lý với quy mô nhỏ từ 10 - 20 con), sản xuất sữa tươi cung cấp cho các nhà hàng và trực tiếp cho người tiêu dùng là chính.
Giai đoạn từ 1954 - 1960:
Ở miền Bắc, Nhà nước bắt đầu quan tâm đên phát triển chăn nuôi, trong đó có bò sữa. Các Nông trường quốc doanh được xây dựng như Ba Vi (Hà Nội), Mộc Châu (Sơn La), Than Uyên (Nghĩa Lộ). Tam Đường (Lào Cai), Hữu Nghị (Quảng Ninh). Hà Trung (Thanh Hoá)... cùng với các trạm trại nghiên cứu về giống và kỹ thuật chăn nuôi bò sữa. Năm 1960, giống bò sữa lang trắng đen Bắc Kinh lần đầu tiên đã được đưa vào Việt Nam nuôi thử nghiệm tại Ba Vì. Sapa và Mộc Châu. Đến thập kỷ 70, Việt Nam đã được Chính phủ Cuba viện trợ 1000 con bò sữa Holstein Friesian (HF) về nuôi thử nghiệm tại Mộc Châu. Đồng thời chính phủ Cuba cũng đã giúp chúng ta xây dựng Trung tâm bò đực giống Moncađa để sản xuất tinh bò đông lạnh.
Những năm 1970:
Việt Nam cũng đã nhập một số trâu sữa Murrah từ Ấn Độ. Số trâu này được nuôi ơ Phùng Thượng, Sông Bé và một số nơi khác. Tuy nhiên, chăn nuôi trâu sữa tỏ ra chưa phù hợp với điều kiện của Việt Nam và vì thế đến nay số lượng trâu Murrah còn lại không nhiều. Từ năm 1976 một số bò sữa HF được đưa vào nuôi tại Đức Trọng (Lâm Đồng). Bên cạnh đó phong trào lai tạo và chăn nuôi bò sữa cũng được phát triển mạnh thêm ờ các tỉnh miền Đông Nam Bộ và Thành phô' Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, cho đến những năm đầu thập kỷ 1980, đàn bò sữa của Việt Nam chỉ được nuôi tại các nông trường quô'c doanh và các cơ sở trực thuộc sở hữu Nhà nước. Quy mô các nông trường quốc doanh thời đó phổ biến là vài trăm con, quy mô lớn nhất là nông trường Mộc Châu với khoảng 1000 con. Do còn nhiều hạn chế về kinh nghiệm chăn nuôi, cơ chế quản lý không phù hợp, điều kiện chế biến và tiêu thụ sữa khó khăn nên nhiều nông trường đã phải giải thể do chăn nuôi bò sữa không có hiệu quả. Đàn bò sữa cũng vì thế mà giảm sút nhanh chóng.
Giai đoạn từ 1985 - 1987:
Đống thời với việc nuôi bò thuần nhập nội, chương trình lai tạo bò sữa Hà - Ấn (HF X Lai Sìn) cũng được triển khai song song với chương trình “Sin hóa đàn bò Vàng nội. Trong thời gian 1985 - 1987 Việt Nam nhập bò Sin (cả bò đực và bò cái) từ Pakistan về nuôi ở nông trường Hữu Nghị Việt Nam - Mông Cổ và Trung tâm tinh đông lạnh Moncada (Ba Vì, Hà Nội). Đồng thời năm 1987, bò Sahiwal cũng đã được nhập từ Pakistan về nuôi tại Trung tâm tinh đông lạnh Moncada và Nông trường bò giống miền Trung (Ninh Hoà, Khánh Hoà).
Những bò Sin và Sahivval này đã được dùng để tham gia chương trình Sin hóa đàn bò Vàng Việt Nam nhằm tạo ra đàn bò Lai Sin làm nền cho việc gây HF khác nhau tùy theo thế hệ lai: F1(1/2 HF), F2 (3/4 HF), F3 (7/8 HF) hay F2 (5/8 HF).
Trong thời gian trên Việt Nam cũng đã nhập tinh đông lạnh bò Jersey và bò Nâu Thuỵ Sỹ dùng để lai với bò cái Lai Sin (LS), bò Vàng và bò cái lai FI. F2 (HF X LS). Tuy nhiên do năng suất sữa của con lai kém hơn rất nhiều so với bò lai với bò Holstein, hơn nữa do màu lông không hợp với thị hiếu của người nuôi, nên việc lai tạo với bò này không có hướng phát triển thêm.
Những bò Sin và Sahivval này đã được dùng để tham gia chương trình Sin hóa đàn bò Vàng Việt Nam nhằm tạo ra đàn bò Lai Sin làm nền cho việc gây HF khác nhau tùy theo thế hệ lai: F1(1/2 HF), F2 (3/4 HF), F3 (7/8 HF) hay F2 (5/8 HF).
Trong thời gian trên Việt Nam cũng đã nhập tinh đông lạnh bò Jersey và bò Nâu Thuỵ Sỹ dùng để lai với bò cái Lai Sin (LS), bò Vàng và bò cái lai FI. F2 (HF X LS). Tuy nhiên do năng suất sữa của con lai kém hơn rất nhiều so với bò lai với bò Holstein, hơn nữa do màu lông không hợp với thị hiếu của người nuôi, nên việc lai tạo với bò này không có hướng phát triển thêm.
Giai đoạn từ 1986 - 1999:
Từ năm 1986 Việt Nam bắt đầu phong trào Đôi mới và chỉ sau 3 năm, từ một nước thiếu lương thực Việt Nam đã có lương thực xuất khẩu. Kinh tế phát triển đã tạo ra nhu cầu dùng sữa ngày càng tăng. Do vậy, đàn bò sữa ở thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh phụ cận như Bình Dương, Đồng Nai, Long An, ngoại thành Hà Nội và các tỉnh phụ cận cũng tăng nhanh về số lượng. Từ năm 1986 đến năm 1999 đàn bò sữa tăng trưởng trung bình 11%/năm. Phong trào chăn nuôi bò sữa tư nhân đã hình thành và tỏ ra có hiệu quả.
Năm 2011:
Nước ta đẩy mạnh phát triền ngành sữa của Việt Nam với việc thông qua quyết định về chính sách phát triển chăn nuôi bò sữa trong giai đoạn 2001 • 2010. Theo chủ trương này, từ năm 2001 đến năm 2004 một số địa phương (thành phô Hồ Chí Minh, An Giang, Bình Dương, Thanh Hóa, Tuyên Quang, Sơn La, Hoà Bình, Hà Nam...) đã nhập một số lượng khá lớn (trên 10 nghìn con) bò HF thuần từ Australia, Mỹ, New Zealand về nuôi. Một số bò Jersey cũng được nhập từ Mỹ và New Zealand trong dịp này.
Trong tổng đàn bò sữa trong cả nước hiện có, trên 75% tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phụ cận như Đồng Nai. Bình Dương và Long An... khoảng 20% ỏ các tỉnh phía Bắc, dưới 2% ở các tinh miền Trung và trên 2% ở Tây Nguyên. Hiện tại trong cơ cấu giống đàn bò sữa cả nước bò HF thuần chiếm khoảng 10% và bò lai chiếm khoảng 90%. Chăn nuôi bò sữa hiện tại chủ yếu là các hộ gia đình (95%), ngoài ra có một số ít cơ sở chăn nuôi Nhà nước và liên doanh.
Nhìn chung, ngành chăn nuôi bò sữa phát triển mạnh từ đầu những năm 1990 đến năm 2001. Tuy nhiên, hiện tại tổng sản lượng sữa tươi sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng được khỏang 20 - 25% lượng sữa tiêu dùng, còn lại phải nhập khẩu từ nước ngoài. Sau một số năm phát triển quá nóng, từ năm 2005 sự phát triến của ngành chăn nuôi bò sữa cũng đã chững lại và bộc lộ một số khó khăn, yếu kém mới, đặc biệt là trong vấn đề tố chức quản lý vĩ mô ngành hàng và tổ chức quản lý sán xuất các cơ sở chăn nuôi hiện đại có quy mô lớn.
Năm 2011:
Nước ta đẩy mạnh phát triền ngành sữa của Việt Nam với việc thông qua quyết định về chính sách phát triển chăn nuôi bò sữa trong giai đoạn 2001 • 2010. Theo chủ trương này, từ năm 2001 đến năm 2004 một số địa phương (thành phô Hồ Chí Minh, An Giang, Bình Dương, Thanh Hóa, Tuyên Quang, Sơn La, Hoà Bình, Hà Nam...) đã nhập một số lượng khá lớn (trên 10 nghìn con) bò HF thuần từ Australia, Mỹ, New Zealand về nuôi. Một số bò Jersey cũng được nhập từ Mỹ và New Zealand trong dịp này.
Trong tổng đàn bò sữa trong cả nước hiện có, trên 75% tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phụ cận như Đồng Nai. Bình Dương và Long An... khoảng 20% ỏ các tỉnh phía Bắc, dưới 2% ở các tinh miền Trung và trên 2% ở Tây Nguyên. Hiện tại trong cơ cấu giống đàn bò sữa cả nước bò HF thuần chiếm khoảng 10% và bò lai chiếm khoảng 90%. Chăn nuôi bò sữa hiện tại chủ yếu là các hộ gia đình (95%), ngoài ra có một số ít cơ sở chăn nuôi Nhà nước và liên doanh.
Nhìn chung, ngành chăn nuôi bò sữa phát triển mạnh từ đầu những năm 1990 đến năm 2001. Tuy nhiên, hiện tại tổng sản lượng sữa tươi sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng được khỏang 20 - 25% lượng sữa tiêu dùng, còn lại phải nhập khẩu từ nước ngoài. Sau một số năm phát triển quá nóng, từ năm 2005 sự phát triến của ngành chăn nuôi bò sữa cũng đã chững lại và bộc lộ một số khó khăn, yếu kém mới, đặc biệt là trong vấn đề tố chức quản lý vĩ mô ngành hàng và tổ chức quản lý sán xuất các cơ sở chăn nuôi hiện đại có quy mô lớn.
NTL tổng hợp
Bài viết cùng chuyên mục
- Việt Nam có thuốc y học cổ truyền đầu tiên điều trị Covid-19
- Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới 2023: Thúc đẩy đổi mới sáng tạo
- Na Uy mở đường hầm dài nhất thế giới cho xe đạp
- Ngày mai có thể quan sát nhật thực lai hiếm gặp
- Phó giáo sư Việt làm hệ thống sạc không dây cho ôtô điện
- Thủ tướng: 'Tập trung nhân lực cho công nghệ chip, vi mạch là hướng đi đúng'
- Tuổi Trái Đất được tính như thế nào?
- Ngoại trưởng Mỹ xem trình diễn robot tại Đại học Bách khoa Hà Nội
- Vì sao khi huấn luyện mô hình ChatGPT cần tới 700.000 lít nước?
- Ảnh chụp chưa từng có về 'tinh vân con cua'
Đăng nhập để gửi bình luận
Bình luận