Những lỗi sai cơ bản trong ăn uống và một số bệnh thường gặp

Thứ bảy, 29/12/2018

Chúng ta đều biết, trong cuộc sống có rất nhiều loại thực phẩm để chúng ta lựa chọn và sử dụng vào bữa ăn của mình. Tuy nhiên, nếu không biết chọn lựa loại thực phẩm nào là phù hợp với bản thân, ăn với số lượng là bao nhiếu là đủ sẽ gây tác động không tốt cho sức khỏe.
Chúng ta đều biết, trong cuộc sống có rất nhiều loại thực phẩm để chúng ta lựa chọn và sử dụng vào bữa ăn của mình. Tuy nhiên, nếu không biết chọn lựa loại thực phẩm nào là phù hợp với bản thân, ăn với số lượng là bao nhiếu là đủ sẽ gây tác động không tốt cho sức khỏe. Vậy, để nhận biết được những sai lầm cơ bản trong ăn uống, từ đó thiết lập được một chế độ ăn hàng ngày hợp lý và khoa học, giúp duy trì tốt cho sức khỏe, xin mời các bạn tìm hiểu qua nội dung bài viết dưới đây.
 

Một số sai lầm trong ăn uống dễ gây nguy cơ mắc bệnh


1. Không ăn bữa sáng



Bữa sáng là một trong những bữa ăn quan trọng nhất trong ngày.Bỏ bữa sáng làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, thậm chí làm giảm khả năng tập trung và nhận thức.

2. Ăn quá nhanh

Ăn quá nhanh sẽ làm chậm việc trao đổi chất, chuyển hóa thực phẩm của cơ thể, khiến việc tiêu hóa không thể hoàn chỉnh.

3. Ăn và uống cùng lúc

Chất lỏng nào xuống dạ dày cũng làm loãng các enzyme cơ thể cần để tiêu hóa protein, carbonhydrate, chất béo từ bữa ăn.

4. Ăn quá no

Ăn quá no làm cho dạ dày căng quá mức, nhu động co bóp chậm lại, dịch tiêu hóa tiết ra không đủ, thức ăn không được tiêu hóa hết gây trở ngại cho chức năng tiêu hóa.

5. Ăn nhiều mắm, muối

Muối chứa nhiều natri, có thể dẫn đến chứng đầy hơi, giữ nước trong cơ thể, gây các bệnh về tim mạch.

6. Coi thường calo trong đồ uống

Các loại nước ngọt đưa vào cơ thể lượng đường và calo khổng lồ. Hãy thay thế chúng bằng trà để cải thiện sức khỏe tim mạch, hạn chế nguy cơ ung thư, tăng cường độ chắc của xương, răng và bảo vệ da.

7. Ăn quá ít rau quả

Theo điều tra nghiên cứu của viện Dinh dưỡng, thói quen ăn uống của người Việt Nam trong 20 năm gần đây đã diễn biến theo chiều hướng bất lợi cho sức khoẻ. Đó là khuynh hướng ăn nhiều thịt, chất béo động vật và quá ít rau, quả, củ.


Thói quen ăn ít rau quả là hệ quả của nhiều bệnh do thiếu xơ và các khoáng chất. (Ảnh: Thịnh An)

Rau quả là nguồn thực phẩm cung cấp nhiều chất xơ, sinh tố, khoáng chất bao gồm cả những chất chống oxy hoá quan trọng. Những vi chất này cần thiết cho nhu cầu chuyển hoá, hệ miễn dịch, có tác dụng giải độc, bảo vệ thành mạch máu và làm chậm quá trình lão hoá.

Theo khuyến cáo của tổ chức Y tế quốc tế, mỗi người cần khoảng 400g rau quả mỗi ngày. Tuy nhiên hiện nay, chúng ta chỉ ăn trung bình khoảng 200g, có người ăn chưa đến 100g rau quả mỗi ngày. Do đó, điều thiết yếu nhất trong việc cải thiện cơ cấu bữa ăn là nên tăng cường lượng rau bằng cách luộc, nấu soup, rau sống hoặc rau trộn. Xen kẽ các bữa ăn chính là các bữa ăn phụ bằng trái cây. Cần ăn đa dạng nhiều loại rau quả, củ khác nhau để cung cấp đủ các nhóm chất sinh tố hoặc khoáng chất cần thiết.

8. Ăn nhiều thực phẩm tinh lọc thay vì thực phẩm thô

Nguồn chất bột đường cung cấp năng lượng chủ yếu trong các gia đình chúng ta hiện nay là gạo trắng, bún, mì, hủ tiếu, phở. Qua quá trình chế biến hoặc xay xát, những thức ăn này đã được bỏ hết phần màng ngoài của các hạt ngũ cốc-bộ phận chứa nhiều vi chất dinh dưỡng nhất của hạt.

Ngũ cốc thô hay hạt toàn phần là những loại hạt còn nguyên mài và lớp vỏ lụa bên ngoài. Theo nhiều nghiên cứu, lượng chất chống oxy hoá trong ngũ cốc thô nhiều và hiệu quả hơn trong rau quả nhiều lần. Chất xơ trong hạt đặc biệt hiệu quả cho việc tiêu mỡ và cải thiện tim mạch hơn so với chất xơ rau quả. Điều khiếm khuyết đáng lưu ý của nhiều chế độ ăn giảm cân hiện nay là chỉ nhằm giảm calo mà không hoặc ít quan tâm đến việc cần phải thay thế thực phẩm tinh lọc bằng thực phẩm thô. Đây cũng là một trong những lý do tại khiến nhiều người béo phì vẫn thường thắc mắc:“Tại sao tôi ăn ít mà vẫn không thấy giảm cân?”.


Ăn ngũ cốc thô sẽ giúp giảm béo tốt hơn so với chế độ ăn thực phẩm tinh lọc thông thường.

Đặc biệt những người ăn ngũ cốc thô còn thấy cải thiện đáng kể lượng CRP (một yếu tố biểu thị tình trạng viêm ở thành mạch máu) trong máu. Lượng mỡ bụng và CRP gia tăng thái quá luôn kèm theo nguy cơ tiểu đường và nhồi máu cơ tim, đột quỵ. Do đó, nên thay thế dần gạo trắng hoặc thực phẩm tinh lọc bằng thực phẩm thô.

Ở nước ta, thực phẩm thô chủ yếu là gạo lức, nếp lức, bắp, mè, các loại đậu, những loại hạt có chất béo. Chính chất xơ, chất khoáng và những chất chống oxy hoá trong hạt toàn phần đóng vai trò then chốt trong việc ngăn chặn béo phì, phòng chống loãng xương, xơ vữa động mạch và tăng cường hệ miễn dịch, kể cả phòng chống ung thư. Chỉ cần ăn mỗi ngày một bữa ăn với ngũ cốc thô cũng làm giảm được khoảng 30% nguy cơ mắc các loại bệnh tim mạch, tiểu đường so với những người hiếm khi dùng chất thô.

9. Ăn quá nhiều chất béo

Một sai lầm thường gặp khác là nhiều người thường có khuynh hướng ăn nhiều chất béo hơn nhu cầu cần thiết.

Chất béo dễ làm tăng cảm giác ngon miệng. Nó cũng là thành phần cấu tạo màng tế bào, tế bào thần kinh và là chất trung gian để một số sinh tố như A, D, E, K được hấp thu qua màng ruột. Tuy nhiên, việc ăn nhiều chất béo động vật là nguy cơ lớn nhất dẫn đến béo phì, tim mạch, áp huyết cao, kể cả bệnh tiểu đường loại 2.


Chất béo trong dầu mỡ được nấu dưới nhiệt độ cao cũng ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe.

Các loại dầu thực vật được chiên xào nhiều lần hoặc dưới nhiệt độ cao cũng sẽ trở thành những loại chất béo xấu làm giảm lượng cholesterol tốt và tăng lượng mỡ toàn phần có hại cho sức khỏe. Cần cảnh giác với lượng chất béo xấu luôn tiềm ẩn trong những sản phẩm thức ăn nhanh, thức ăn công nghiệp.

Đối với những người bình thường, lượng chất béo có thể đến 30% khẩu phần. Riêng với những người đang điều trị bệnh tiểu đường hoặc tim mạch, các nhà khoa học khuyên nên giới hạn chất béo trong khoảng 10%. Chất béo tốt nhất là loại chất béo chưa bão hoà trong cá hoặc trong những loại hạt có chất béo như mè, hạt dẻ, hạt hướng dương.

10. Chuộng trứng, thịt hơn cá, hải sản

Nghiên cứu đã cho thấy lượng tiêu thụ thịt trung bình ở những người Việt Nam trưởng thành trong 20 năm qua đã gia tăng từ 24,4g/ngày/người lên 62g/ngày/người.

Ở thành phố, lượng thịt tiêu thụ đã lên đến 180g/ngày/người. Không chỉ thịt, nhiều gia đình còn đang lạm dụng quá nhiều trứng. Lượng trứng tiêu thụ không đáng kể ở thời điểm 1985 đã tăng lên gấp 24 lần sau 20 năm. Trong khi đó, lượng cá, hải sản mà mỗi người tiêu thụ chỉ dừng lại ở khoảng 50g/ngày/người.


Sai lầm của nhiều người là dùng trứng thay thế cho cá và hải sản trong bữa ăn hàng ngày.
Cá và hải sản là nguồn đạm dễ tiêu hoá và có chứa nhiều acid béo omega 3 hữu ích cho hoạt động tim mạch, thần kinh. Do đó, nên giảm lượng thịt, và nên ăn cá, chuyển dần chế độ đạm động vật sang đạm thực vật.
Đối với trứng, dù là một món bổ dưỡng, có đủ các acid amin thiết yếu nhưng cũng có tỷ lệ cholesterol rất cao, hơn cả thịt.

Do cuộc sống bận rộn, nhiều gia đình có khuynh hướng lạm dụng loại thức ăn nhanh, tự chuẩn bị bằng một tô mì gói thêm vài cọng rau và 1 hoặc 2 quả trứng. Cách ăn này không chỉ dễ gây tăng mỡ máu mà còn thiếu chất xơ và nhiều vi chất khác kể cả những chất chống oxy hoá quan trọng. Vì thế, mỗi người chỉ nên ăn từ 2-3 quả trứng/tuần. Đặc biệt, người đang điều trị tim mạch không nên ăn trứng.
 

Một số biểu hiện có thể đoán ra bệnh qua việc ăn uống


Nếu bạn đột nhiên không thấy thèm ăn, hễ nhìn thấy thức ăn là ngán, thấy dầu mỡ thì buồn nôn, cơ thể mỏi mệt, bắp chân mỏi rã rời, nước tiểu đỏ, mắt vàng... thì rất có thể bạn bị viêm gan. 

Thức ăn là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể con người. Sau vài giờ không được ăn uống, cơ thể sẽ có cảm giác đói, và khi đó, chỉ cần ăn một ít thức ăn là sẽ thỏa mãn được nhu cầu của cơ thể; nhưng khi cơ thể có bệnh thì cảm giác thèm ăn sẽ bị ảnh hưởng. 

Từ sự ăn uống tốt hay xấu, việc thích hay không thích một số thức ăn, lượng thức ăn nhiều hay ít một cách thất thường, khẩu vị thay đổi và cảm giác khác thường sau bữa ăn, ta có thể biết cơ thể có bệnh hay không. Dưới đây là những dấu hiệu cho thấy cơ thể bạn đang bị mắc bệnh nào đó.

1. Không thiết ăn uống 

Trường hợp này có hai khả năng. Chán ăn là sinh lý nếu cơ thể không thấy có gì khác thường, chi có sự thay đổi mạnh mẽ về tình cảm như lo buồn, hoảng sợ quá mức ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thần kinh trung ương điều khiển về ăn uống. 

Các trường hợp chán ăn bệnh lý: 

- Bỗng nhiên không muốn ăn, miệng nhạt vô vị, ngạt mũi, chảy nước mũi, rêu lưỡi trắng, phần nhiều do cảm cúm gây nên. 

- Thường xuyên không muốn ăn, đại tiện lỏng, số lần tăng lên nhiều, ngửi mùi thức ăn nhất là thức ăn có nhiều mỡ thì thấy ngán và bị tiêu chảy ngay, đó là do cơ năng của dạ dày và ruột giảm.


- Miệng nhạt nhẽo, ăn uống sút kém, chứng tỏ có bí đại tiện theo thói quen. Đó là do khi bí đại tiện, vi khuẩn đường ruột chết thối, sinh ra nhiều chất có hại, ảnh hưởng đến chức năng của gan và trung khu thực vật gây nên. 

Ngoài ra, không thiết ăn uống có thể do bệnh truyền nhiễm cấp tính, bệnh thận, bệnh tim, các bệnh ác tính. Trong một số trường hợp, chán ăn ở người cao tuổi và trẻ em thường là triệu chứng báo trước, khởi đầu của một bệnh nặng, cần đề phòng, chú ý theo dõi. 

2. Thèm ăn quá mức 

Tình trạng này có thể là hiện tượng sinh lý, do mang thai, làm công việc nặng, tiêu hao nhiều năng lượng nên cơ thể phải bù đắp bằng cách ăn nhiều. 

Biểu hiện thèm ăn bệnh lý thường gặp là ăn rất nhiều nhưng gầy, sút cân do trong các bệnh cường tuyến giáp trạng, bệnh đái tháo đường. Ngoài ra, việc động mạch của huyết quản não bị xơ cứng nghiêm trọng cũng có thể làm cho thiếu máu thiếu ôxy ở trung khu não (cơ quan điều khiển việc hấp thu thức ăn), gây ra cảm giác thèm ăn quá mức. 

3. Cảm giác khác thường sau khi ăn

Cảm giác thèm ăn bình thường, nhưng khi ăn món có nhiều dầu mỡ thì có cảm giác đau chướng phần bụng trên phía bên phải và lan tỏa đến phần lưng vai bên phải: Có thể bị bệnh ở túi mật hoặc đường mật. 

Sau khi ăn 30-60 phút thì vùng bụng trên (vùng thượng vị) có cảm giác khó chịu, ăn vào một lượng nhỏ thực phẩm như vài cái bánh bích qui, bánh mì, bánh gatô, uống một chút nước sôi thì hết các triệu chứng đó; đó là triệu chứng viêm dạ dày hay loét hành tá tràng mãn tính. 

Sau khi ăn, bụng đầy, người thấy nôn nao, bị nấc ợ, đau dạ dày có lúc bí đại tiện hoặc tiêu chảy, hình thể gầy còm... là biểu hiện sa dạ dày. 

Sau một bữa ăn quá nhiều, bỗng nhiên thấy đau dữ dội ở vùng bụng trên, hoặc đau quặn lại và truyền lan sang phần lưng bên trái, kèm theo cồn cào, buồn nôn, nôn mửa hoặc phát sốt. Đây có thể là triệu chứng viêm tụy cấp. 

Sau khi ăn đồ ăn nguội thì đau bụng tiêu chảy, điều đó chứng tỏ cơ thể quá nhạy cảm với đồ ăn lạnh và đang có rối loạn chức năng của dạ dày và đường ruột. 

Ăn uống bình thường, sau khi ăn, nhu động dạ dày quá mức bình thường, có tiếng kêu trong ruột, buồn đi đại tiện, điều này chứng tỏ chức năng dạ dày và ruột đã bị rối loạn, đường ruột quá nhạy cảm hoặc viêm ruột mãn tính đã thành thói quen. 

Nên nghĩ đến ung thư dạ dày thời kỳ đầu nếu sau khi ăn, thức ăn chảy ngược lên miệng có kèm theo nuốt khó, chỉ có thể uống nước hoặc thức ăn lỏng, sau xương ức và phần bụng trên khó chịu, dinh dưỡng kém, gầy sút rõ rệt có thể do ung thư thực quản hoặc co giật thượng vị. Người già, trung niên ăn xong thấy bụng trên chướng, không có nguyên nhân nào khác, không thiết gì đến ăn, người gầy sút nhiều. Nên đến bác sĩ chuyên khoa để kiểm tra. 

 
Đông Trần tổng hợp (Nguồn:  VNE, Sức Khỏe & Đời Sống, Hội Đông y Việt Nam)
 
 
 

Tags

Bình luận


Tiêu điểm

Video nổi bật

×