Nội lực lớn của các nhà khoa học trẻ Việt Nam

Thứ tư, 13/12/2017

Đội ngũ các nhà khoa học trẻ, đặc biệt là các tài năng khoa học trẻ cần được nhìn nhận và đánh giá một cách toàn diện để từ đó có các chính sách phù hợp trong đào tạo, phát hiện, và phát huy sự sáng tạo của các nhà khoa học trẻ.
TAINANGVIET.vn - Khoa học công nghệ đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển đất nước, mang lại sự phát triển bền vững cho nền kinh tế và đời sống xã hội. 
 

Nội lức lớn của các nhà khoa học trẻ Việt Nam


Trước hết cần phải đánh giá một cách khách quan về vai trò và tầm quan trọng của đội ngũ các nhà nghiên cứu khoa học trẻ, thì đây là một đội ngũ tuy chưa có nhiều kinh nghiệm nhưng có tiềm năng sáng tạo vô cùng lớn với nhiều ý tưởng có tính đột phá và tạo ra các sản phẩm khoa học độc đáo. Trên thực tế, cũng như ở các nước trên thế giới và đặc biệt ở các nước có nền khoa học phát triển cao, nhất là ở các lĩnh vực nghiên cứu thực nghiệm thì đội ngũ các nhà khoa học trẻ (dưới 35 tuổi) là lực lượng hoạt động khoa học rất hiệu quả mang lại phần lớn các trị thức và thành tựu mới. Có hai nhóm các nhà khoa học trẻ được coi là lực lượng tinh hoa trong giới học thuật bao gồm các nghiên cứu sinh và nghiên cứu viên sau tiến sỹ mới hoàn thành luận án tiến sỹ. Đây là lực lượng chính và trực tiếp tạo ra các sản phẩm của các đề tài nghiên cứu khoa học dưới sự hướng dẫn của các nhà khoa học có kinh nghiệm. Đội ngũ các nhà khoa học trẻ có sự sáng tạo, nhiệt tình và hoài bão của tuổi trẻ, nếu được dẫn dắt và đào tạo bài bản ở môi trường làm việc chuyên nghiệp thì sẽ đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển chung của nền khoa học công nghệ. Sự đóng góp của mỗi cá nhân (dù là tài năng) cho sự phát triển của cả một nền khoa học công nghệ là rất nhỏ. Vậy làm thế nào để kích thích và tập hợp được nhiều sự đóng góp này ở nhiều lĩnh vực khác nhau để thúc đẩy sự phát triển chung là một vấn đề vô cùng lớn. Chính vì vậy sự phát triển khoa học công nghệ Việt Nam cần một môi trường học thuật chuyên nghiệp, có tính mới, năng động và đặc biệt là phải cởi mở trong hợp tác quốc tế ở mọi phương diện.
 

Hội nhập để thúc đẩy nội lực và phát triển


Đội ngũ các nhà khoa học trẻ Việt Nam có trí tuệ, sức sáng tạo, sự nhiệt tình và sự niềm đam mê đối với lĩnh vực mình theo đuổi không thua kém các nước trên thế giới. Thực tế đã chứng minh các sinh viên của Việt Nam bao gồm sinh viên đại học, sau đại học cũng như các nhà khoa học trẻ Việt Nam khi được học tập và làm việc tại các cơ sở đào tạo và nghiên cứu ở nước ngoài đã đạt được các thành tích rất ấn tượng, không hề thua kém các bạn bè quốc tế. Chính vì vậy, không gì khác ngoài yêu cầu cấp thiết cần tạo ra một môi trường học thuật tại Việt Nam có tính quốc tế hóa, năng động và chuyên nghiệp. Quốc tế hóa trong nghiên cứu khoa học là một xu hướng tất yếu, vừa tăng cường được nội lực lại vừa tiếp thu và ứng dụng được những kiến thức và thành tựu của quốc tế, đưa được các nghiên cứu của Việt Nam vượt ra khỏi biên giới bằng các công bố quốc tế. Với nền tảng kiến thức và các kỹ năng hội nhập của đội ngũ các nhà khoa học trẻ Việt Nam hiện nay, thì khả năng và cơ hội phát triển của nền khoa học công nghệ nước nhà có nhiều cơ hội bứt phá đang ở phía trước. Chính vì vậy, cần phải đi theo thông lệ chung của Quốc tế trong việc thiết lập một môi trường học thuật và nghiên cứu khoa học ở Việt Nam. Với môi trường học thuật quốc tế hóa như vậy thì hoàn toàn giải quyết được vấn đề lo lắng hiện nay về các nhà khoa học trẻ đi ra nước ngoài và không trở về. Các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài hiện nay, dù làm việc ở vị trí nào, quốc gia nào cung đang hướng về đất nước, đang theo dõi và cập nhật các chính sách cải cách nền khoa học và các phương hướng phát triển khoa học. Nếu trong nước có được một môi trường làm việc tốt, phương thức làm khoa học không khác xa với quốc tế thì các nhà khoa học trẻ Việt Nam ra nước ngoài sẽ sẵn sàng trở về nước làm việc. Bên cạnh đó còn thu hút được nhiều nhà khoa học quốc tế đến Việt Nam làm việc và đóng góp cho nền khoa học công nghệ nước nhà.
 

Đào tạo gắn với phát huy nguồn lực


Để các tài năng trẻ của Việt Nam phát triển và đóng góp nhiều hơn nữa cho sự phát triển khoa học công nghệ Việt Nam thì cần phải “ươm” và tạo động lực cho đội ngũ này ngay tại Việt Nam. Hiện nay đã có sự thay đổi đáng kể trong việc “tập trung hóa” các chương trình đào tạo sau đại học đặc biệt là đào tạo Tiến sỹ. Nghiên cứu sinh cần phải được gắn liền với các cơ sở đào tạo, tuy nhiên sự liên kết giữa nghiên cứu sinh và cơ sở đào tạo vẫn còn chưa triệt để, vẫn còn ở giai đoạn “bán tập trung” và có phần lỏng lẻo dẫn đến hiệu quả hoạt động khoa học không cao. Các nghiên cứu sinh không được tham gia hoặc gắn liền với một đề tài dự án khoa học nào của thầy hướng dẫn hoặc cơ sở đào tạo nên nguồn tài chính để các nghiên cứu sinh thực hiện đề tài luận án của mình phần lớn do nghiên cứu sinh tự đầu tư, do đó chất lượng sản phẩn khoa học chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu công bố quốc tế. Đặc biệt ở Việt Nam chưa có các chương trình học bổng, hoặc nguồn tài trợ cho các nghiên cứu viên sau tiến sỹ (postdoc) thông qua các chương trình học bổng sau tiến sỹ. Các cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học chưa có các chương trình, vị trí nghiên cứu cho các nghiên cứu sinh vừa bảo vệ luận án muốn được tiếp tục theo đuổi các mục tiêu nghiên cứu của mình. Mặc dù hiện nay quỹ Nafosted đã bắt đầu khởi xướng và mở rộng quy mô theo hướng này, tuy nhiên nhìn chung thuật ngữ “postdoc” vẫn còn khá xa lạ và chưa đi vào đời sống nghiên cứu khoa học ở môi trường học thuật tại Việt Nam. Tuy nhiên phần lớn nguồn lực đầu tư cho khoa học công nghệ thông qua các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học các cấp vẫn chưa chú trọng đầu tư và phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao này. 

Tóm lại, các nhà khoa học trẻ Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển và đóng góp sự sáng tạo cho sự nghiệp phát triển khoa học công nghệ của đất nước. Các nhà khoa học trẻ đặc biệt là các tài năng khoa học cần một môi trường cởi mở, chuyên nghiệp và quốc tế hóa để có nhiều cơ hội phát huy được năng lực của mình một cách hiệu quả nhất, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển nền khoa học Việt Nam theo hướng hiện đại và bền vững, tạo tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế, xã hội.
 
TS. Hoàng Văn Tổng
 
Vài nét về tác giả:
TS. Hoàng Văn Tổng

Nghiên cứu viên Trung tâm nghiên cứu Sinh Y dược học, Giảng viên Bộ môn Sinh lý bệnh, Học viện Quân y.
Giải thưởng Khoa học công nghệ Thanh niên Quả Cầu Vàng năm 2017.


2012-2017:
Thành viên nghiên cứu chính 02 đề tài Nafosted: "Nghiên cứu vai trò chức năng của các adipokine huyết thanh và các microRNA tự do ở bệnh nhân đái tháo đường type 2, 2014-2017", đang triển khai. Và đề tài: "Nghiên cứu đột biến gene major histocompatibility complex class I chain-related (MIC) ở bệnh nhân ung thư gan liên quan nhiễm virus viêm gan B (HBV), 2012-2014", đã nghiệm thu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra vai trò quan trọng của protein MICA và MICB và tính đa hình gen MICA trong nhiễm HBV và các bệnh lý gan liên quan.
2015-2022: Chủ trì 01 chương trình nước ngoài đang triển khai: "Chương trình tài trợ nguồn lực của Cơ quan trao đổi học thuật và giáo dục Đức (DAAD) cho các cơ sở đào tạo tại các nước đang phát triển (20,000 Euro), 2017”. Tham gia 02 chương trình nghiên cứu hợp tác với nước ngoài đang triển khai: "Chương trình Trung tâm thử nghiệm lâm sàng Việt - Đức do Bộ Giáo dục và Nghiên cứu liên bang Đức (BMBF) tài trợ, 2017-2022" của Viện Y học Nhiệt đới, Đại học Tuebingen, CHLB Đức, Bệnh Viện Trung ương Quân đội 108, Học viện Quân Y và "Chương trình trao đổi học thuật và nghiên cứu về Sức khỏe tại các nước đang phát triển của Cơ quan trao đổi học thuật và giáo đục Đức (DAAD) DAAD-PAGEL (Partnerschaften für den Gesundheits sektor in Entwicklungsländern - Partnerships for the Health Sector in Developing, 2015-2018" của Viện Y học Nhiệt đới, Đại học Tuebingen, CHLB Đức, Học viện Quân Y, Bệnh Viện Trung ương Quân đội 108.
2017-2021: Chủ nhiệm 01 đề tài Nafosted đang triển khai: "Nghiên cứu vai trò chức năng của con đường tín hiệu JAK/STAT/SOCS và biến đổi protein Interferon-stimulated gene 15 (ISG15) trong các bệnh lý gan liên quan đến nhiễm virus viêm gan B, 2017-2021".
Công trình nghiên cứu khoa học: 37 bài báo khoa học (14 bài tác giả chính) đã đăng trên các tạp chí khoa học ISI và Quốc tế uy tín, 09 tóm tắt (abstract) khoa học (05 bài tác giả chính) đã trình bày ở hội nghị khoa học quốc tế và được đăng trên các tạp chí khoa học Quốc tế.

Tags

Bình luận


Tiêu điểm

Video nổi bật

×