Quan niệm và các yếu tố xác định nhân tài trong nền công vụ

Thứ hai, 21/10/2019

Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống trọng dụng và đãi ngộ nhân tài. Văn bia ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên của nước ta đã khắc rõ: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy, các bậc Vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài bồi đắp thêm nguyên khí”
Quan niệm và các yếu tố xác định nhân tài trong nền công vụ
 
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống trọng dụng và đãi ngộ nhân tài. Văn bia ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên của nước ta đã khắc rõ: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy, các bậc Vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài bồi đắp thêm nguyên khí”[1]. Ngày nay, trong kỷ nguyên kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hóa, việc thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài trong hoạt động của nền công vụ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đáp ứng những yêu cầu mới đặt ra hiện nay. Để góp phần cung cấp luận chứng khoa học trong việc đề xuất các kiến nghị xây dựng chính sách về phát hiện thu hút, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài trong nền công vụ, bài viết này xin bàn về 3 vấn đề: (1) Nhân tài là ai?; (2) Nhân tài được xác định trên cơ sở các yếu tố nào?; và (3) Ai được coi là nhân tài trong nền công vụ?

[1] Văn bia của Thân Nhân Trung năm 1442
 

1.   Nhân tài là ai?


Đã có nhiều nhà khoa học, tuỳ theo nội dung và mục tiêu nghiên cứu đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về nhân tài. Từ điển Hán ngữ hiện đại định nghĩa “Nhân tài là người có tài năng và đạo đức; có một sở trường nào đó”. Tác giả Nguyễn Đắc Hưng và Phan Xuân Dũng[1] quan niệm “Nhân tài là những người có tài năng, năng lực vượt trội ở lĩnh vực nào đó: kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học... và có đóng góp cho xã hội”. Trong Cương yếu quy hoạch nhân tài trung và dài hạn 2010 - 2020 do Chính phủ Trung Quốc ban hành ngày 06/6/2010 có quan niệm rằng “nhân tài là những người có tri thức hoặc kỹ năng chuyên môn nhất định, tiến hành lao động sáng tạo và có đóng góp cho xã hội, là người lao động có tố chất và năng lực tương đối cao trong nguồn nhân lực”.

Tác giả Nguyễn Huy Tú[2] tiếp cận từ góc độ “tài năng”. Theo ông, “tài năng là một tổ hợp thuộc tính được cấu tạo nên do sự tương tác của các tổ hợp cơ bản những thuộc tính nhân cách đó là trí thông minh cao, tính sáng tạo cao, động cơ mạnh và năng lực chuyên biệt vượt trội với hiệu quả tác động của các yếu tố môi trường là xã hội, gia đình, trường học và bạn bè”. Người tài năng là người có được các tổ hợp thuộc tính trên đây làm tiền đề cho sự hình thành có chất lượng cao những hoạt động của mình trong xã hội và vì xã hội. Như vậy, tài năng phải là một cơ cấu mở bao gồm không chỉ trí thông minh cao, tính sáng tạo cao, động cơ mạnh mẽ và năng lực chuyên biệt vượt trội, mà còn phải gồm các hiệu ứng tâm lý - nhân cách - xã hội của các quan hệ gia đình, nhà trường, bạn bè và xã hội.
 

[1] Nguyễn Đắc Hưng, Phát triển nhân tài - Chấn hưng đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,  năm 2007.
[2] Nguyễn Huy Tú, Tài năng - quan niệm, nhận dạng và đào tạo, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006.



Theo mô hình cấu tạo nhân tài theo quan niệm của các nhà tài năng học Đức (1988), các thuộc tính của nhân tài tạo thành một hệ thống tích hợp, gọi là hệ thống thuộc tính nhân cách cơ bản của nhân tài được sắp xếp theo thứ bậc như sau: (1) Thái độ tích cực đối với sự tiến bộ xã hội; (2) Mục đích sống riêng cao cả, vững bền; (3) Động cơ và hứng thú mạnh mẽ; (4) Trí tuệ cao; (5) Tri thức rộng và kỹ năng thành thạo; (6) Những phẩm chất nhân cách đặc biệt thuận lợi.

Mặc dù có nhiều cách hiểu và quan niệm khác nhau về nhân tài, nhưng tựu chung khi nói về nhân tài, các học giả đều xoay quanh các thuật ngữ như “năng lực”, “tài năng”, “thiên tài”. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (năm 2005): Năng lực là “đặc điểm của cá nhân thể hiện mức độ thông thạo - tức là có thể thực hiện một cách thành thục và chắc chắn một hay một số dạng hoạt động nào đó. Năng lực gắn liền với những phẩm chất về trí nhớ, tính nhạy cảm, trí tuệ, tính cách của cá nhân. Năng lực có thể phát triển trên cơ sở năng khiếu (đặc điểm sinh lý của con người, trước hết là của hệ thần kinh trung ương), song không phải là bẩm sinh, mà là kết quả phát triển của xã hội và của con người”. Tài năng “là sự kết hợp hoàn thiện nhất các năng lực nhất định đối với một hoạt động nhất định, giúp con người đạt được những thành tựu xuất sắc, mới mẻ, có ý nghĩa xã hội. Tài năng biểu thị chất lượng cao của năng lực, có thể biểu hiện trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào, thông qua đào tạo chu đáo và luyện tập công phu, hoạt động thực tiễn phong phú, phát triển tối đa các tố chất tương ứng”. Thiên tài là “tài năng sáng tạo ở trình độ cao nhất; đồng thời khái niệm này còn chỉ nhân tài bẩm sinh. Một tác phẩm thiên tài là một tác phẩm có tính chất hết sức mới mẻ và độc đáo, có ý nghĩa lịch sử đặc biệt đối với sự phát triển của xã hội loài người. Do đó, nó để lại những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc. Một người được coi là thiên tài là người đã có được những tác phẩm sáng tạo như thế, là một con người có những khả năng xuất chúng, có những cố gắng rất lớn, nhạy cảm với những vấn đề nóng bỏng của thời đại, của xã hội, biết thể hiện và thoả mãn được những nhu cầu quan trọng nhất của xã hội”.

Như vậy, có thể thấy rằng năng lực, tài năng, thiên tài là những cấp độ thể hiện sự phát triển của năng lực. “Năng lực cao đạt được những thành tựu hoàn thiện, xuất sắc, mới mẻ, có ý nghĩa xã hội, gọi là tài năng. Tài năng đặc biệt làm nên kỳ tích trong hoạt động sáng tạo, vượt lên trên mức bình thường được gọi là thiên tài”. Tuy nhiên, dù ở bất cứ mức độ phát triển nào, năng lực, tài năng hay thiên tài đều cần phải gắn bó và dựa trên nền tảng của phẩm chất đạo đức nhất định. Phẩm chất đạo đức, với nghĩa là “những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội”, có thể bao gồm các yếu tố sau đây: có tấm lòng lương thiện; thành thật, giữ chữ tín; có trách nhiệm, nghiêm túc; kính trên, nhường dưới; khoan dung, khiêm nhường; cần cù, nỗ lực; tự kiểm soát bản thân. Bất kể những người nào có năng lực ở các cấp độ phát triển khác nhau (tài năng, thiên tài) đều dựa trên nền tảng là phẩm chất đạo đức. Theo hình tháp về các cấp độ phát triển của năng lực, tác giả bài viết này tạm chưa bàn đến cấp độ thấp nhất (năng lực) và cấp độ cao nhất (thiên tài), mà chỉ tập trung vào nhóm đối tượng ở cấp độ giữa (tài năng).

Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa Nhân tài là người có trình độ, năng lực vượt trội, có thành tích đặc biệt xuất sắc và có ảnh hướng đến sự tiến bộ và phát triển chung của xã hội. Tài năng, nếu được hình thành và phát triển trên một nền tảng phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, có tấm lòng lương thiện, có trách nhiệm, khoan dung, cần cù, nỗ lực... thì tài năng đó sẽ mang lại sự phát triển tiến bộ vượt bậc của xã hội, phục vụ đắc lực cho cộng đồng.
 

2. Nhân tài được xác định dựa trên các yếu tố nào?


Con người nói chung, nhân tài nói riêng trong quá trình hình thành, phát triển, trưởng thành đều chịu tác động qua lại của cả 3 yếu tố: (1) di truyền của hai dòng tộc cha và mẹ; (2) sự ảnh hưởng của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội; (3) sự phát huy các tố chất cá nhân (sự nỗ lực, thích ứng, tính năng động, sáng tạo... của bản thân). Ba yếu tố này quan hệ gắn bó, tác động qua lại, thúc đẩy và tạo tiền đề cho nhau và đóng vai trò cốt lõi đối với sự phát triển và trưởng thành ở mỗi con người nói chung, góp phần hình thành nên năng lực trí tuệ, năng lực thực tiễn và phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân.

Lịch sử nhân loại cho thấy, tuy việc dùng người mỗi thời thường khác nhau nhưng từ xưa đến nay trong quan niệm của xã hội và giai cấp thống trị thì người có thực tài đều có những điểm chung nhất định, phân biệt với những người bình thường ở những tiêu chí như: trí tuệ thông minh, tư duy linh hoạt, bền bỉ; quyết đoán, dám nghĩ dám làm; tự tin, biết suy xét sâu sắc; có đạo đức, chí hướng và hoài bão lớn; hiệu quả hoạt động xã hội cao... Tuy nhiên, để xác định được người thực tài xét trên cả hai mặt “đức” và “tài”, đòi hỏi phải dựa trên hệ thống các yếu tố cụ thể để đánh giá, xác định nhân tài, đó là:

(1) Năng lực trí tuệ: Là sự thông minh, có năng lực tư duy tốt, có khả năng khái quát tổng hợp cao; khả năng phán xét sự việc và dự đoán xa; khả năng tiếp thu nhanh, nhớ lâu, hiểu kỹ, phản xạ nhanh, linh hoạt. Đặc biệt, phải có tư duy sáng tạo cao, luôn kiên trì theo đuổi cái mới. Tư duy sáng tạo là phẩm chất cao quý của nhân tài, họ luôn nhạy bén, nắm bắt các thông tin và làm chủ các tri thức mới. Trên thực tế, để đánh giá năng lực trí tuệ của cá nhân, có thể áp dụng các công cụ để đo lường chỉ số thông minh (IQ)....    

(2) Năng lực thực tiễn: Khi nhấn mạnh một số phẩm chất của tài năng, người ta thường chú ý nhiều đến năng lực trí tuệ mà ít quan tâm đến năng lực thể chất, năng lực ý chí, năng lực hoạt động xã hội, năng lực tổ chức, năng lực giao tiếp và năng lực thực tiễn hoàn thành nhiệm vụ. Năng lực thực tiễn ở đây đòi hỏi phải có kỹ năng giao tiếp tốt, biết lựa chọn những thông tin bổ ích, biết diễn đạt và trình bày vấn đề rõ ràng, rành mạch; kỹ năng quan sát thực tế tốt và đánh giá sự việc đúng đắn. Trên thực tế, để đánh giá năng lực thực tiễn của cá nhân, có thể áp dụng các công cụ để đo lường chỉ số cảm xúc trí tuệ (EQ). Bên cạnh đó còn căn cứ vào công trạng, thành tích và kết quả công việc được xã hội thừa nhận.

Người có tài phải có sự kết hợp giữa những đặc điểm mang tính bẩm sinh (tố chất) như có trí tuệ phát triển, có năng lực tư duy, tiếp thu nhanh, có trí nhớ tốt, phản xạ nhanh, linh hoạt... và những phẩm chất được hình thành nhờ có quá trình rèn luyện, tu dưỡng, học tập, tiếp thu... từ xã hội, cộng đồng như có có kỹ năng giao tiếp tốt; tinh thần trách nhiệm cao; ham học hỏi, khám phá... Trong số đó, những phẩm chất được hình thành nhờ có quá trình giáo dục, rèn luyện, tu dưỡng... giữ vai trò quyết định. Nhiều công trình khoa học đã khẳng định tất cả mọi người phát triển bình thường đều tiềm ẩn những năng khiếu khác nhau, đều có khả năng trở thành người có tài năng. Tuy nhiên, những năng khiếu đó sẽ chỉ ở dạng tiềm năng nếu không được tiếp tục giáo dục, rèn luyện trong môi trường giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội. Do vậy có thể nói rằng yếu tố giáo dục của nhà trường và gia đình, yếu tố rèn luyện, tu dưỡng trong môi trường xã hội đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành nhân cách của cá nhân. Mối liên hệ giữa các yếu tố hình thành tài năng và yếu tố xác định tài năng được minh họa tại Hình 2.



Như đã được đề cập ở Hình 2, tài năng được hình thành bởi hai nhóm yếu tố: năng lực trí tuệ và năng lực thực tiễn. Tuy nhiên, đây mới là điều kiện cần của tài năngNgười có tài năng chỉ thật sự tỏa sáng, thật sự hữu dụng nếu người đó có một trái tim nhân ái giàu tình thương, chan hoà với mọi người; trong hoạt động luôn có động cơ trong sáng, vì những mục tiêu cao cả, vì cộng đồng; có hoài bão, ý chí, nghị lực, bản lĩnh, có tinh thần trách nhiệm, lòng nhiệt huyết, đam mê, có tâm với công việc và không tư lợi cá nhân, theo đuổi suốt đời mục tiêu, lý tưởng của mình. Chính vì vậy, chỉ có tài năng thôi chưa đủ, “tài” phải đi đôi với “đức” thì lúc đó người có tài năng mới thực sự là “hiền tài” mà ông cha ta vẫn thường quan niệm. Như vậy, tài năng, bên cạnh việc thể hiện thông qua tiêu chí về năng lực trí tuệ và năng lực thực tiễn nêu trên, luôn được hiện diện và gắn bó với một hệ thống phẩm chất đạo đức, tư cách nhất định, và yếu tố phẩm chất đạo đức sẽ là điều kiện đủ để xây dựng một người tài năng toàn diện có cả tài và đức.
 

3. Ai được coi là nhân tài trong nền công vụ?

​​​​
Có thể khẳng định rằng không có “tài năng” theo nghĩa chung chung, trừu tượng. Xác định một nhân tài bao giờ cũng phải gắn với một ngành, một lĩnh vực, một nghề cụ thể trong hoạt động của đời sống xã hội. Việc xác định nhân tài trong nền công vụ trước hết phải căn cứ vào tính chất, đặc điểm của nền công vụ cũng như đặc điểm, tính chất công việc của những người làm việc trong các cơ quan hành chính.

Trên thực tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về công vụ, song về bản chất thuật ngữ “công vụ” được hiểu “là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do cán bộ, công chức tiến hành theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ lợi ích nhà nước, nhân dân và xã hội”. Công vụ có một số tính chất và đặc thù như: (1) Mục đích của công vụ là phục vụ lợi ích nhà nước, nhân dân và xã hội; (2) Chủ thể thực thi công vụ là cán bộ, công chức; (3) Công vụ được tiến hành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được nhà nước giao và tuân theo pháp luật; (4) Hoạt động công vụ mang tính thường xuyên, chuyên nghiệp.

Việc xác định nhân tài trong nền công vụ còn phải căn cứ vào đặc điểm, tính chất công việc của người làm việc trong nền công vụ - đó chính là đội ngũ cán bộ, công chức. Đặc điểm, tính chất lao động của họ có những điểm riêng khác với các đối tượng lao động khác trong xã hội. Công chức là lực lượng thực thi công quyền, thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, thi hành pháp luật nhằm quản lý, sử dụng có hiệu quả tài sản chung và nguồn ngân sách nhà nước, phục vụ nhiệm vụ chính trị. Người công chức khi thực hiện công vụ là đang thực thi công quyền, phục vụ công quyền trong một thẩm quyền cụ thể nhất định. Thẩm quyền này lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào tính chất công việc và cấp bậc chức vụ mà họ được trao giữ, thực hiện. Chính vì họ là những người thực thi công quyền nên nhân tài trong nền công vụ - nhóm tinh hoa (elite) của đội ngũ công chức hơn bao giờ hết cần các phẩm chất như trung thành với Tổ quốc, nhân dân, tinh thông nghiệp vụ, nắm vững quy định pháp luật, trung thực, có tâm với công việc và tận tụy phục vụ nhân dân,…

Như vậy, xuất phát từ quan niệm về nhân tài nói chung và trên cơ sở phân tích tính chất, đặc điểm của nền công vụ và của những người làm việc trong nền công vụ, có thể đưa ra quan niệm về nhân tài trong nền công vụ như sau: Nhân tài trong nền công vụ được hiểu là “người có trình độ, năng lực vượt trội, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ theo chức trách được giao, có kết quả, thành tích tác động và ảnh hưởng đến sự phát triển của một ngành, một lĩnh vực cụ thể trong hoạt động của các nền công vụ”. Trình độ, năng lực phải luôn kết hợp chặt chẽ với phẩm chất đạo đức, đây là hai mặt không tách rời mà luôn gắn bó mật thiết với nhau, là cơ sở, điều kiện, tiền đề của nhau, thúc đẩy lẫn nhau để hoàn thiện nhân cách của nhân tài trong nền công vụ. Bên cạnh việc có tài năng, người công chức phải luôn tuân thủ đạo đức công vụ, văn hóa công sở; tận tụy, mẫn cán, công tâm, sáng tạo trong sự tuân thủ pháp luật, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của các nền công vụ.

Từ nội hàm của khái niệm trên có thể hiểu, bên cạnh những yếu tố về năng lực, trình độ, phẩm chất đạo đức của nhân tài nói chung, nhân tài trong nền công vụ cũng có những năng lực, phẩm chất riêng phù hợp với đặc điểm và tính chất của các nền công vụ. Cụ thể:

Thứ nhất, về năng lực trí tuệ: bên cạnh những phẩm chất chung về năng lực trí tuệ của nhân tài như thông minh, tư duy tốt, khả năng tiếp thu nhanh, có khả năng khái quát tổng hợp cao..., nhân tài trong nền công vụ phải được đào tạo cơ bản về một ngành, nghề cụ thể ở những cơ sở đào tạo có chất lượng trong và ngoài nước và có thành tích học tập tốt (tiêu chí bằng cấp); nắm vững chuyên môn, nghiệp vụ; có khả năng làm giỏi, làm tốt, sáng tạo công việc ở một vị trí việc làm nhất định; có đủ sức khỏe về thể lực, trí lực và sự ổn định về tâm lý, tinh thần.

Thứ hai, về năng lực thực tiễn:  với các biểu hiện là người có năng lực quản lý và tổ chức thực hiện một cách thành thục và có tính sáng tạo một loại hoạt động công vụ nhất định; có khả năng kết hợp và phát huy tối đa các năng lực nhất định, đem lại đóng góp quan trọng, xuất sắc trên một lĩnh vực cụ thể của nền hành chính; có tác phong dân chủ; là người kiên định, vững vàng và làm chủ bản thân trong mọi tình huống xử lý công việc.

Đối với công chức tài năng giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, bên cạnh những phẩm chất trên, phải có tầm nhìn chiến lược, lâu dài; biết tập hợp và đoàn kết phát huy năng lực và sở trường của mọi người trong cơ quan, đơn vị; có khả năng dẫn dắt, định hướng, tổ chức, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, kiểm tra việc thực hiện và điều hòa công việc trong cơ quan, đơn vị được giao phụ trách; có khả năng điều hòa các quan hệ, đặc biệt là quan hệ về lợi ích trong các đối tượng thuộc quyền quản lý và các đối tượng khác có liên quan.

Thứ ba, về kết quả thực hiện công việc: với biểu hiện là luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, công vụ được giao, bảo đảm đúng và vượt tiến độ được giao với chất lượng tốt, các văn bản quản lý sau khi ban hành có tính khả thi, phù hợp với thực tiễn. Đối với công chức lãnh đạo, quản lý, ngoài các nội dung nêu trên còn được đánh giá theo kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức được giao lãnh đạo, quản lý hoàn thành đúng tiến độ với chất lượng cao.

Trong các nhóm tiêu chí trên, tiêu chí trình độ, năng lực chỉ là điều kiện cần thiết, là khả năng tiềm tàng của tài năng, còn tiêu chí đánh giá kết quả thực thi công vụ mới được coi là có vai trò quyết định đến việc xác định nhân tài trong nền công vụ. Bởi vì những hiểu biết, tri thức trình độ cao, hay sự thành thạo về kỹ năng có thể là một trong những biểu biện của tài năng chứ không hẳn đã là tài năng. Vấn đề quan trọng là trình độ, năng lực đó phải được kiểm nghiệm và đánh giá thông qua hoạt động thực tiễn, phải mang lại những kết quả thực thi công việc cụ thể và đó phải là những kết quả thật sự xuất sắc. Tài năng phải là tổng hợp những phẩm chất được thể hiện và khẳng định thông qua hoạt động thực tiễn, tạo nên sản phẩm đặc biệt và nổi bật.

Đồng thời, như trên đã đề cập, tài năng phải luôn kết hợp chặt chẽ với phẩm chất đạo đức, “tài” phải đi đôi với “đức” để tạo thành nhân cách toàn diện của nhân tài trong nền công vụ. Chỉ có tài thôi chưa đủ, nhân tài trong nền công vụ còn phải tuân thủ đạo đức công vụ, có lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc; trung thành với Tổ quốc, với Nhà nước, với nhân dân; cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư; gương mẫu về đạo đức, lối sống; trung thực, không vụ lợi, không tham nhũng; tận tụy phục vụ nhân dân, hết lòng vì nhiệm vụ được giao; có bản lĩnh, chính kiến; quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

Như vậy, nhân tài trong nền công vụ phải là người hội tụ đầy đủ các tiêu chí về trình độ, năng lực, kết quả thực hiện công việc và phẩm chất đạo đức nêu trên (Hình 3). 



Bên cạnh đó, do hoạt động của các nền công vụ khá rộng với nhiều ngành nghề, lĩnh vực quản lý, phạm vi hoạt động khác nhau, nên nhân tài trong nền công vụ ở mỗi ngành nghề, lĩnh vực còn cần có một số phẩm chất, năng lực chuyên biệt khác, do các cơ quan có thẩm quyền quản lý ngành, lĩnh vực quy định.

Xuất phát từ tính chất, đặc điểm của nền công vụ cũng như đặc điểm và tính chất công việc của công chức như đã phân tích ở trên, có thể xác định trong nền công vụ rất cần có những nhân tài để đảm nhiệm các nhóm hoạt động sau: hoạt động lãnh đạo, quản lý và hoạt động tham mưu hoạch định chính sách.

Một là, nhóm nhân tài lãnh đạo, quản lý, với những tiêu chí xác định như: (i) Có thái độ xã hội tích cực, ủng hộ công cuộc đổi mới; (ii) Muốn có quyền lực bằng con đường đàng hoàng, trong sạch; có năng lực ra quyết sách phù hợp, xác định mục đích rõ ràng, xây dựng kế hoạch tường minh và kích thích sáng kiến, sáng tạo của mọi thành viên cộng đồng trên cơ sở tầm nhìn xa trông rộng; (iii) Năng lực quy tụ lực lượng (nhân lực và vật lực), tổ chức nhân sự tối ưu (tổng hợp, bù trừ, sắp xếp) và năng lực điều hoà phối hợp nhân lực, vật lực trong quá trình thực hiện mục đích xã hội; (iv) Năng lực kiểm tra (kiểm tra hành vi hoạt động, kiểm tra quá trình hoạt động và kiểm tra kết quả hoạt động), đánh giá, rút kinh nghiệm đưa ra bài học xác định kịp thời trong từng giai đoạn cũng như trong cả thời kỳ phát triển cộng đồng xã hội; (v) Năng lực phát huy tính sáng tạo của mọi thành viên, cộng đồng, tập thể, xã hội; (vi) Năng lực đồng cảm với những người dưới quyền, ngang quyền và cấp trên; (vii) Năng lực lập quan hệ, ứng xử, giao tiếp với người dưới quyền, ngang quyền và cấp trên; có uy tín cao, vị thế xã hội cao trong cơ quan, đơn vị và trong xã hội; (viii) Có tính cách ổn định, thuận lợi đối với chức vị lãnh đạo - quản lý; và (ix) Thẳng thắn, cương trực, tôn trọng chân lý.

Hai là, nhóm nhân tài tham mưu, hoạch định chính sách, với có những tiêu chí xác định như: (i) Có thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; (ii) Am hiểu triết học, kinh tế - chính trị học, hành chính học, chính sách công, khoa học tổ chức…; (iii) Có thái độ đồng thuận, tán thành, ủng hộ hết lòng đối với công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay; (vi) Có mục đích sống riêng kiểu "sống để làm việc - cống hiến", không phải "làm việc để hưởng thụ"; (v) Có vốn tri thức rộng (về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội - nhân văn); (vi) Có vốn tri thức sâu rộng trong lĩnh vực tham mưu hoạch định chính sách; (vii) Am hiểu lịch sử và hiện trạng nền hành chính và bộ máy hành chính; (viii) Am hiểu tình hình kinh tế - thị trường thế giới, khu vực và Việt Nam; (ix) Có kỹ năng thu thập, xử lý và truyền đạt thông tin liên quan đến lĩnh vực tham mưu, hoạch định chính sách; (x) Biết tổ chức lao động một cách có khoa học; (xi) Có trí thông minh cao (IQ); Có trí sáng tạo cao (CQ); Có trí tuệ xã hội SI cao (EQ và SCQ cao).

Tóm lại, việc xác định và đi tới thống nhất về nhận thức thế nào là nhân tài trong nền công vụ có ý nghĩa rất quan trọng, phải có quan niệm đúng, có nhận thức thống nhất về nhân tài trong nền công vụ thì mới có cơ sở để xây dựng và thực hiện tốt chính sách thu hút, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với nhân tài. Chưa làm được việc này thì rất khó có thể đề ra và thực hiện được các chính sách cụ thể đối với nhân tài trong nền công vụ. Từ sự thống nhất trong nhận thức sẽ tiến tới thống nhất trong hành động cũng như trong việc triển khai xây dựng và thực hiện chính sách, góp phần khắc phục tình trạng thiếu đồng bộ trong việc thực hiện chính sách thu hút, trọng dụng, đãi ngộ đối với nhân tài tại các Bộ, ngành và địa phương ở nước ta hiện nay.
 
TS. Trần Văn Ngợi, Viện Khoa học tổ chức nhà nước(Theo isos.gov.vn - MH)
 
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Đắc Hưng (2007), Phát triển nhân tài  -  Chấn hưng đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Nguyễn Hoàng Lương và Phạm Hồng Tung (2008), Tài năng và đắc dụng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đào Trọng Thi (2007), Nghiên cứu xác lập cơ sở khoa học cho quy trình phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đề tài độc lập cấp nhà nước mã số ĐTĐL-2004/21.
4. Nguyễn Huy Tú (2006), Tài năng - quan niệm, nhận dạng và đào tạo, NXB Giáo dục, Hà Nội.
5. Trần Anh Tuấn (2012) (chủ biên), Pháp luật về công vụ, công chức của Việt Nam và một số nước trên thế giới,NXB Chính trị quốc gia.
6. Viện Khoa học tổ chức nhà nước (2010), Tổng hợp báo cáo của các bộ, ngành, địa phương về việc triển khai các chính sách trọng dụng, đãi ngộ nhân tài của Bộ Nội vụ, tính đến thời điểm tháng 6 năm 2010.
7. Song Thành (2004), Chiến lược nhân tài - một vấn đề cấp bách của Việt Nam trên đường phát triển và hội nhập, số 8, tr. 67-71, Tạp chí Lý luận Chính trị.
8. Từ điển Bách Khoa Việt Nam (2005), NXB Từ điển Bách khoa, tập 3, 4.
9. Brian Tracy (2007), biên dịch Trương Hồng Dũng, Trương Thảo Hiền, Bí quyết tuyển dụng và đãi ngộ người tài: 21 bí quyết thực tế để đạt được thành công về phát triển nhân sự, NXB Tổng Hợp, Tp. Hồ Chí Minh.
10. Berger, Lance and Berger, Dorothy (2004), The Talent Management Handbook: Creating Organizational Excellence by Identifying, Developing, and Promoting Your Best People. New York: McGraw-Hill.
11. H.Kurerus/ A.Rode (2008), Top Public Managers in Europe – Management and Working Conditions  of the Senior Civil servants in European Member States, European Institute of Public Administration, Masstricht, Netherlands.
12. Thẩm Vinh Hoa và Ngô Quốc Diệu đồng chủ biên (2008), Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài -  kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 

Tags

Bình luận


Tiêu điểm

Video nổi bật

×