Đóng góp sự sáng tạo của Tài năng trẻ
Thứ hai, 11/12/2017

Các nhà khoa học, những người làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học trong nước đang dần tiếp cận các kiến thức, khám phá và công nghệ mới từ nhân loại thông qua các kênh thông tin truyền thông, internet, từ những người bạn quốc tế hoặc những người bạn đang du học/công tác tại nước ngoài.
TAINANGVIET.vn - Nền khoa học công nghệ Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá đang có những cơ hội lớn bên cạnh những thách thức không nhỏ.
Cơ hội xuất phát chính từ việc được tiếp cận với tri thức toàn cầu một cách nhanh chóng nhất. Các nhà khoa học, những người làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học trong nước đang dần nhận được sự công bằng như những người bạn nước ngoài trong việc tiếp cận các kiến thức, khám phá và công nghệ mới từ nhân loại thông qua các kênh thông tin truyền thông, internet, từ những người bạn quốc tế hoặc những người bạn đang du học/công tác tại nước ngoài. Nền khoa học công nghệ Việt Nam cũng có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, được nhận chuyển giao các công nghệ hiện đại từ khắp nơi trên thế giới. Dân số cơ cấu vàng là một cơ hội lớn để thu hút nguồn vốn đầu tư của nước ngoài trong mọi lĩnh vực vào Việt Nam. Sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài tác động theo nhiều cách khác nhau đến nhiều lĩnh vực khác nhau đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, cải thiện đời sống và nâng cao nhu cầu sống của nhân dân. Một trong những hệ quả khác là thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ trong nước nhằm nội địa hoá các sản phẩm và công nghệ có chất lượng cao phục vụ người dân địa phương và xa hơn là hướng tới thị trường nước ngoài. Một đất nước làm chủ được các công nghệ có giá trị sẽ trở thành một đất nước giàu mạnh. Việt Nam sẽ trở thành một đất nước giàu mạnh nếu sở hữu và làm chủ được các công nghệ lõi.
Vậy làm sao để nền khoa học công nghệ Việt Nam phát triển? Ở vị trí là một người nghiên cứu khoa học, tôi nhận thấy các vấn đề và xin đưa ra một số giải pháp sau:
1. Về nguồn nhân lực: Bỏ qua các vấn đề vật chất, nguồn nhân lực nghiên cứu có chất lượng là một thách thức lớn cho sự phát triển khoa học công nghệ của Việt Nam. Một nền khoa học vững mạnh cần được thiết lập một cách vững chắc trên nền tảng nội tại. Nguồn nhân lực khoa học công nghệ chất lượng cao và đầy nhiệt huyết sẽ là một trong những nhân tố quyết định đến sự phát triển bền vững của nền khoa học công nghệ trong nước. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là cần thiết để tạo ra những người đi đầu xu hướng của thế giới. Họ sẽ là những người đầu tàu để tiếp tục đào tạo ra thế hệ có chất lượng tiếp theo. Vì vậy, hãy đầu tư vào chất lượng, chọn và đào tạo những người thực sự có năng lực, có phẩm chất, những người có khả năng tích luỹ kinh nghiệm, xây dựng và truyền đạt lại cho thế hệ sau những khả năng tư duy tốt và sáng tạo nhất.
2. Về chính sách: Người Việt Nam luôn được đánh giá cao về năng lực và tính chịu khó khi làm việc tại các đơn vị nghiên cứu ở nước ngoài. Tuy nhiên, vì lý do khách quan hay do môi trường làm việc mà hoạt động một số lượng các du học sinh khi trở về nước bị giảm chất lượng đáng kể. Nguyên nhân của hiện tượng này một phần do mức lương của người làm nghiên cứu quá thấp, chính sách hỗ trợ đời sống của người nghiên cứu còn nghèo nàn. Một người nghiên cứu trẻ sẽ phải khó khăn hơn rất nhiều so với những người làm nghề khác vì họ làm trong một lĩnh vực mà không có kinh nghiệm thì khó có được kinh phí thông qua các đề tài/dự án. Còn muốn có kinh nghiệm thì phải thực hành nhiều nhiều. Nhưng muốn thực hành nhiều thì phải có kinh phí. Vậy là nút thắt giữa kinh phí, kinh nghiệm và năng lực rất khó để tháo. Mối lo cơm áo, gạo tiền khiến sự sáng tạo bị thắt nút. Nhà nước nên có những chính sách tốt hơn để cải thiện đời sống của những người nghiên cứu, để họ có thể toàn tâm cho hoạt động nghiên cứu của mình.
Nhưng, thậm chí ngay cả khi có được đề tài dự án, việc cung cấp vật tư, hoá chất hoặc các động vật nuôi cho nghiên cứu cũng gặp nhiều trở ngại đáng kể. Ví dụ việc nhập khẩu hải quan cho các hoá chất hoặc động vật nghiên cứu tốn nhiều thời gian. Người làm nghiên cứu khó có thể có đủ vật tư để thực hiện các đề tài dự án một cách tự do. Sự siết chặt quản lý vật tư hoá chất, mẫu vật làm một trong những nguyên nhân gây chậm phát triển cho khoa học và công nghệ Việt Nam. Để khoa học có thể phát triển một cách tự nhiên nhất, hãy tạo những hành lang pháp lý thuận lợi nhất có thể cho những người làm nghiên cứu
Mặt khác, sức ép về mặt thời gian khi thực hiện đề tài cùng sức ép về sản phẩm và những khó khăn trong hoạt động giải ngân tài chính cho đề tài là những nguyên nhân khiến những người làm nghiên cứu dường như giảm đi phần nào nhuệ khí. Nhà nước cũng đã có những thông tư nghị định hỗ trợ để giảm các thủ tục hành chính, tài chính cho những người làm nghiên cứu, nhưng dường như Bộ Tài chính và Bộ Khoa học và Công nghệ vẫn chưa tìm được hướng đi chung thực sự để tháo gỡ những thủ tục hành chính-tài chính cho người làm khoa học. Các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực quản lý Khoa học và công nghệ nên có những cơ chế chính sách thoáng hơn cho các hoạt động khoa học công nghệ. Hiện nay, cũng đã có một số tổ chức khoa học công nghệ như Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (Nafosted) có những cải cách đáng kể trong thủ tục hành chính. Mặc dù các đề tài được cấp kinh phí từ Quỹ này còn kiểm soát chặt chẽ về tài chính, nhưng các quy trình nghiệm thu đề tài hoặc các thủ tục hành chính được rút gọn hơn đáng kể. Việc nộp hồ sơ đăng kí đề tài/dự án, các báo cáo kết quả, nghiệm thu đề tài đều được thực hiện trực tuyến. Điều này giúp sự tương tác giữa người đăng kí và cơ quan chủ quản của đề tài giảm thời gian chờ đợi và giảm đáng kể chi phí in ấn, gửi thư.
3. Phối hợp giữa các Bộ ngành: Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp chặt chẽ với các bộ ngành khác để tạo ra những mối quan hệ mật thiết giữa những người làm nghiên cứu, người sản xuất và ứng dựng, Để tránh tình trạng sản phẩm nghiên cứu bị bỏ lơ, nhà sản xuất không có sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu thị trường và người sử dụng không được tiếp nhận những sản phẩm mới. Ví dụ, các nhà nghiên cứu xây dựng được quy trình tạo ra tế bào gốc. Tế bào gốc muốn ứng dụng trong trị liệu bệnh cần phải có một quy trình sản xuất được kiểm soát chặt chẽ nhưng họ không có kinh phí để xây dựng nhà xưởng, hệ thống quản lý chất lượng... họ cũng không có khách hàng, không đủ kiến thức để quảng bá sản phẩm và bán hàng. Họ cũng khó có thể tìm được sự hợp tác với các bệnh viện để chấp nhận sử dụng sản phẩm. Trong khi đó, các bộ ngành với vai trò là người quản lý có thông tin và có thể tập hợp được tất cả các đơn vị (doanh nghiệp, trường, viện...) mà họ quản lý. Sự gắn kết giữa các Bộ ngành sẽ làm cầu nối vững chắc cho các mối hợp tác giữa các đơn vị để đưa sản phẩm cuối cùng đến người dân.
Cơ hội xuất phát chính từ việc được tiếp cận với tri thức toàn cầu một cách nhanh chóng nhất. Các nhà khoa học, những người làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học trong nước đang dần nhận được sự công bằng như những người bạn nước ngoài trong việc tiếp cận các kiến thức, khám phá và công nghệ mới từ nhân loại thông qua các kênh thông tin truyền thông, internet, từ những người bạn quốc tế hoặc những người bạn đang du học/công tác tại nước ngoài. Nền khoa học công nghệ Việt Nam cũng có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, được nhận chuyển giao các công nghệ hiện đại từ khắp nơi trên thế giới. Dân số cơ cấu vàng là một cơ hội lớn để thu hút nguồn vốn đầu tư của nước ngoài trong mọi lĩnh vực vào Việt Nam. Sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài tác động theo nhiều cách khác nhau đến nhiều lĩnh vực khác nhau đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, cải thiện đời sống và nâng cao nhu cầu sống của nhân dân. Một trong những hệ quả khác là thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ trong nước nhằm nội địa hoá các sản phẩm và công nghệ có chất lượng cao phục vụ người dân địa phương và xa hơn là hướng tới thị trường nước ngoài. Một đất nước làm chủ được các công nghệ có giá trị sẽ trở thành một đất nước giàu mạnh. Việt Nam sẽ trở thành một đất nước giàu mạnh nếu sở hữu và làm chủ được các công nghệ lõi.
Vậy làm sao để nền khoa học công nghệ Việt Nam phát triển? Ở vị trí là một người nghiên cứu khoa học, tôi nhận thấy các vấn đề và xin đưa ra một số giải pháp sau:
1. Về nguồn nhân lực: Bỏ qua các vấn đề vật chất, nguồn nhân lực nghiên cứu có chất lượng là một thách thức lớn cho sự phát triển khoa học công nghệ của Việt Nam. Một nền khoa học vững mạnh cần được thiết lập một cách vững chắc trên nền tảng nội tại. Nguồn nhân lực khoa học công nghệ chất lượng cao và đầy nhiệt huyết sẽ là một trong những nhân tố quyết định đến sự phát triển bền vững của nền khoa học công nghệ trong nước. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là cần thiết để tạo ra những người đi đầu xu hướng của thế giới. Họ sẽ là những người đầu tàu để tiếp tục đào tạo ra thế hệ có chất lượng tiếp theo. Vì vậy, hãy đầu tư vào chất lượng, chọn và đào tạo những người thực sự có năng lực, có phẩm chất, những người có khả năng tích luỹ kinh nghiệm, xây dựng và truyền đạt lại cho thế hệ sau những khả năng tư duy tốt và sáng tạo nhất.
2. Về chính sách: Người Việt Nam luôn được đánh giá cao về năng lực và tính chịu khó khi làm việc tại các đơn vị nghiên cứu ở nước ngoài. Tuy nhiên, vì lý do khách quan hay do môi trường làm việc mà hoạt động một số lượng các du học sinh khi trở về nước bị giảm chất lượng đáng kể. Nguyên nhân của hiện tượng này một phần do mức lương của người làm nghiên cứu quá thấp, chính sách hỗ trợ đời sống của người nghiên cứu còn nghèo nàn. Một người nghiên cứu trẻ sẽ phải khó khăn hơn rất nhiều so với những người làm nghề khác vì họ làm trong một lĩnh vực mà không có kinh nghiệm thì khó có được kinh phí thông qua các đề tài/dự án. Còn muốn có kinh nghiệm thì phải thực hành nhiều nhiều. Nhưng muốn thực hành nhiều thì phải có kinh phí. Vậy là nút thắt giữa kinh phí, kinh nghiệm và năng lực rất khó để tháo. Mối lo cơm áo, gạo tiền khiến sự sáng tạo bị thắt nút. Nhà nước nên có những chính sách tốt hơn để cải thiện đời sống của những người nghiên cứu, để họ có thể toàn tâm cho hoạt động nghiên cứu của mình.
Nhưng, thậm chí ngay cả khi có được đề tài dự án, việc cung cấp vật tư, hoá chất hoặc các động vật nuôi cho nghiên cứu cũng gặp nhiều trở ngại đáng kể. Ví dụ việc nhập khẩu hải quan cho các hoá chất hoặc động vật nghiên cứu tốn nhiều thời gian. Người làm nghiên cứu khó có thể có đủ vật tư để thực hiện các đề tài dự án một cách tự do. Sự siết chặt quản lý vật tư hoá chất, mẫu vật làm một trong những nguyên nhân gây chậm phát triển cho khoa học và công nghệ Việt Nam. Để khoa học có thể phát triển một cách tự nhiên nhất, hãy tạo những hành lang pháp lý thuận lợi nhất có thể cho những người làm nghiên cứu
Mặt khác, sức ép về mặt thời gian khi thực hiện đề tài cùng sức ép về sản phẩm và những khó khăn trong hoạt động giải ngân tài chính cho đề tài là những nguyên nhân khiến những người làm nghiên cứu dường như giảm đi phần nào nhuệ khí. Nhà nước cũng đã có những thông tư nghị định hỗ trợ để giảm các thủ tục hành chính, tài chính cho những người làm nghiên cứu, nhưng dường như Bộ Tài chính và Bộ Khoa học và Công nghệ vẫn chưa tìm được hướng đi chung thực sự để tháo gỡ những thủ tục hành chính-tài chính cho người làm khoa học. Các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực quản lý Khoa học và công nghệ nên có những cơ chế chính sách thoáng hơn cho các hoạt động khoa học công nghệ. Hiện nay, cũng đã có một số tổ chức khoa học công nghệ như Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (Nafosted) có những cải cách đáng kể trong thủ tục hành chính. Mặc dù các đề tài được cấp kinh phí từ Quỹ này còn kiểm soát chặt chẽ về tài chính, nhưng các quy trình nghiệm thu đề tài hoặc các thủ tục hành chính được rút gọn hơn đáng kể. Việc nộp hồ sơ đăng kí đề tài/dự án, các báo cáo kết quả, nghiệm thu đề tài đều được thực hiện trực tuyến. Điều này giúp sự tương tác giữa người đăng kí và cơ quan chủ quản của đề tài giảm thời gian chờ đợi và giảm đáng kể chi phí in ấn, gửi thư.
3. Phối hợp giữa các Bộ ngành: Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp chặt chẽ với các bộ ngành khác để tạo ra những mối quan hệ mật thiết giữa những người làm nghiên cứu, người sản xuất và ứng dựng, Để tránh tình trạng sản phẩm nghiên cứu bị bỏ lơ, nhà sản xuất không có sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu thị trường và người sử dụng không được tiếp nhận những sản phẩm mới. Ví dụ, các nhà nghiên cứu xây dựng được quy trình tạo ra tế bào gốc. Tế bào gốc muốn ứng dụng trong trị liệu bệnh cần phải có một quy trình sản xuất được kiểm soát chặt chẽ nhưng họ không có kinh phí để xây dựng nhà xưởng, hệ thống quản lý chất lượng... họ cũng không có khách hàng, không đủ kiến thức để quảng bá sản phẩm và bán hàng. Họ cũng khó có thể tìm được sự hợp tác với các bệnh viện để chấp nhận sử dụng sản phẩm. Trong khi đó, các bộ ngành với vai trò là người quản lý có thông tin và có thể tập hợp được tất cả các đơn vị (doanh nghiệp, trường, viện...) mà họ quản lý. Sự gắn kết giữa các Bộ ngành sẽ làm cầu nối vững chắc cho các mối hợp tác giữa các đơn vị để đưa sản phẩm cuối cùng đến người dân.
TS. Vũ Bích Ngọc
Vài nét về tác giả:
TS. Vũ Bích Ngọc
Nghiên cứu viên Phòng thí nghiệm Nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Giải thưởng Khoa học công nghệ Thanh niên Quả Cầu Vàng năm 2017
2017-2018: Chủ nhiệm 02 đề tài cấp cơ sở (01 đề tài đã nghiệm thu xuất sắc, 01 đề tài đang triển khai)
2011-2016: Thư ký tham gia 04 đề tài cấp Nhà nước: "Nghiên cứu phân lập và sử dụng tế bào miễn dịch (tế bào tua) để tiêu diệt tế bào ung thư vú, 2011-2015", đã nghiệm thu xếp loại xuất sắc. Đề tài này được tiến hành nhằm phân lập và ứng dụng tế bào miễn dịch (tế bào tua) vào điều trị bệnh UTV in vitro và in vivo trên mô hình động vật. Đề tài: "Đánh giá hiện trạng, năng lực và khả năng nghiên cứu, ứng dụng, phát triển công nghệ tế bào gốc trong lĩnh vực y - dược và nông nghiệp, 2015-2017" đang thực hiện. Đề tài: "Nghiên cứu tái thiết lập chương trình trực tiếp in vitro và in vivo nguyên bào sợi chuột thành tế bào tiền thân giống nguyên bào mạch, 2014-2016" đã nghiệm thu loại tốt, kết quả nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy ứng dụng công nghệ tái thiết lập chương trình có thể kích hoạt được tế bào chức năng trực tiếp trở thành tế bào tạo mạch, giúp điều trị bệnh lý tắc nghẽn mạch máu chi. Đề tài: "Nghiên cứu điều trị thực nghiệm bệnh đái tháo đường bằng liệu pháp tế bào gốc, 2012-2016" đã nghiệm thu xếp loại xuất sắc. Đề tài đã thực hiện nghiên cứu thiết lập quy trình điều trị đái tháo đường type 1&2 bằng liệu pháp cấy ghép các tế bào có khả năng sản xuất insulin.
Công trình nghiên cứu khoa học: Đồng tác giả 04 bài báo khoa học đã đăng trên các tạp chí thuộc danh mục SCI, 10 bài báo khoa học (02 bài tác giả chính) đã đăng trên các tạp chí thuộc danh mục SCI –Expanded, 15 bài báo khoa học (04 bài tác giả chính) đã đăng trên các tạp chí thuộc danh mục ISI, đồng tác giả 02 bài báo khoa học đã đăng trên tạp chí ngoài danh sách ISI có ISSN. Tác giả chính 01 và đồng tác giả 06 chương sách và cuốn sách xuất bản quốc tế. 05 bài (01 bài tác giả chính) đăng tại hội nghị quốc tế. Thư ký tạp chí Bimedical research and therapy
TS. Vũ Bích Ngọc
Nghiên cứu viên Phòng thí nghiệm Nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Giải thưởng Khoa học công nghệ Thanh niên Quả Cầu Vàng năm 2017
2017-2018: Chủ nhiệm 02 đề tài cấp cơ sở (01 đề tài đã nghiệm thu xuất sắc, 01 đề tài đang triển khai)
2011-2016: Thư ký tham gia 04 đề tài cấp Nhà nước: "Nghiên cứu phân lập và sử dụng tế bào miễn dịch (tế bào tua) để tiêu diệt tế bào ung thư vú, 2011-2015", đã nghiệm thu xếp loại xuất sắc. Đề tài này được tiến hành nhằm phân lập và ứng dụng tế bào miễn dịch (tế bào tua) vào điều trị bệnh UTV in vitro và in vivo trên mô hình động vật. Đề tài: "Đánh giá hiện trạng, năng lực và khả năng nghiên cứu, ứng dụng, phát triển công nghệ tế bào gốc trong lĩnh vực y - dược và nông nghiệp, 2015-2017" đang thực hiện. Đề tài: "Nghiên cứu tái thiết lập chương trình trực tiếp in vitro và in vivo nguyên bào sợi chuột thành tế bào tiền thân giống nguyên bào mạch, 2014-2016" đã nghiệm thu loại tốt, kết quả nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy ứng dụng công nghệ tái thiết lập chương trình có thể kích hoạt được tế bào chức năng trực tiếp trở thành tế bào tạo mạch, giúp điều trị bệnh lý tắc nghẽn mạch máu chi. Đề tài: "Nghiên cứu điều trị thực nghiệm bệnh đái tháo đường bằng liệu pháp tế bào gốc, 2012-2016" đã nghiệm thu xếp loại xuất sắc. Đề tài đã thực hiện nghiên cứu thiết lập quy trình điều trị đái tháo đường type 1&2 bằng liệu pháp cấy ghép các tế bào có khả năng sản xuất insulin.
Công trình nghiên cứu khoa học: Đồng tác giả 04 bài báo khoa học đã đăng trên các tạp chí thuộc danh mục SCI, 10 bài báo khoa học (02 bài tác giả chính) đã đăng trên các tạp chí thuộc danh mục SCI –Expanded, 15 bài báo khoa học (04 bài tác giả chính) đã đăng trên các tạp chí thuộc danh mục ISI, đồng tác giả 02 bài báo khoa học đã đăng trên tạp chí ngoài danh sách ISI có ISSN. Tác giả chính 01 và đồng tác giả 06 chương sách và cuốn sách xuất bản quốc tế. 05 bài (01 bài tác giả chính) đăng tại hội nghị quốc tế. Thư ký tạp chí Bimedical research and therapy
Tags
Bài viết cùng chuyên mục
- Hai Gương mặt trẻ Việt Nam triển vọng tham gia chương trình lãnh đạo đổi mới sáng tạo toàn...
- 'Cơ chế trả lương như ngân hàng để hút tài năng công nghệ'
- 20 học sinh được nhận Huân chương Lao động
- ThS Nguyễn Hữu Hoàng: Nghiên cứu chuyển đổi số giúp người cao tuổi Việt Nam thích ứng
- Cú huých đặc biệt về nhân tài giúp Việt Nam tiến vào kỷ nguyên mới
- Nhà khoa học trẻ nghiên cứu ứng dụng công nghệ hạt nhân
- Việt Nam có 9 người lọt nhóm 10.000 nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới
- Chiến lược đúng sẽ lôi kéo nhân tài bán dẫn toàn cầu về nước
- Tiến sĩ trồng nấm vân chi đỏ bằng vỏ trấu
- Hội đồng xét tặng Giải thưởng Gương mặt trẻ Việt Nam tiêu biểu năm 2023 họp lần thứ...
Đăng nhập để gửi bình luận
Bình luận