Giải pháp thu hút, trọng dụng và phát huy tài nguyên trí tuệ

Thứ bảy, 11/11/2017

Số lượng các nhà khoa học trẻ liên tục tăng cả về chất lượng và số lượng trong những năm vừa qua. Nhiều nhà khoa học trẻ được đào tạo bài bản ở các nước có nền khoa học tiến tiến.
Số lượng các nhà khoa học trẻ liên tục tăng cả về chất lượng và số lượng trong những năm vừa qua. Nhiều nhà khoa học trẻ được đào tạo bài bản ở các nước có nền khoa học tiến tiến. Đặc điểm chung nổi bật của các nhà khoa học trẻ là luôn giàu nhiệt huyết và khao khát cống hiến cho đất nước. Họ là những người đang có những đóng góp cụ thể, thiết thực cho sự phát triển của nước nhà. Tuy nhiên, những đóng góp ấy còn rất khiêm tốn và mờ nhạt so với tiềm năng.

Trong điều kiện cơ sở vật chất và nguồn tài chính đầu tư cho khoa học công nghệ còn hạn chế, nhưng những năm qua, đội ngũ nhà khoa học trẻ đã có những đóng góp thiết thực cho sự phát triển của nền khoa học công nghệ nước nhà. Minh chứng cho điều này là ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị của các nhà khoa học trẻ được công bố trên các tạp chí khoa học uy tín trên thế giới, góp phần nâng cao vị thế khoa học Việt Nam trên trường quốc tế. Nhiều nghiên cứu, sáng kiến của các nhà khoa học trẻ đã góp phần nâng cao năng suất sản xuất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh. Có được những đóng góp không nhỏ này là nhờ vào tinh thần không ngại khó, ngại khổ để vươn lên những đỉnh cao tri thức của nhân loại, luôn sẵn sàng tiếp thu cái mới và mạnh dạn thay đổi để tạo ra giá trị cao hơn. Nhưng, đánh giá một cách khách quan, có thể thấy rằng vai trò của các nhà khoa học trong đó có các nhà khoa học trẻ đối với nền khoa học công nghệ nước nhà còn khá mờ nhạt. Điều này được thể hiện trên các phương diện: số lượng các công bố khoa học của các nhà khoa học Việt Nam trong những năm qua rất thấp so với các nước trong khu vực (chỉ bằng 1/3 của Thái Lan và 2/5 của Malaysia); số lượng bằng phát minh sáng chế của các nhà khoa học Việt Nam rất thấp; ứng dụng khoa học và công nghệ trong sự phát triển của đất nước chưa rõ ràng, chưa tương xứng với lực lượng đông đảo các nhà khoa học được đào tạo bài bản; khoa học công nghệ chưa thực sự là động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.

Dưới đây, là một số nguyên nhân chủ quan, khách quan và những giải pháp nhằm phát huy hết tiềm năng của các nhà khoa học trẻ:
 

Thứ nhất, và là rào cản lớn nhất đó là nhiều nhà khoa học trẻ còn thiếu nhiệt huyết và khát vọng cống hiến cho nước nhà.

Đất nước ta còn nghèo và cần người trẻ phải nỗ lực, cố gắng lao động và sáng tạo không ngừng để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ. Nhiều nhà khoa học trẻ đang trăn trở với những khó khăn của nước nhà và luôn khát khao, vượt qua mọi khó khăn về vật chất và tinh thần, không ngừng sáng tạo để cống hiến vì sự thịnh vượng của đất nước. Nhưng không ít nhà khoa học trẻ còn thờ ơ với vận mệnh của quốc gia, chưa đặt lợi ích của đất nước lên cao nhất khi làm khoa học; nhiều người dành quá nhiều thời gian để than thở, trách móc khi đất nước, trong hoàn cảnh khó khăn chưa thể đáp ứng được những đòi hỏi cá nhân. Đất nước ta đang thiếu nguồn nhân lực cao để phát triển, nhưng hiện tượng chảy máu chất xám ngày càng gia tăng, nhiều nhà khoa học trẻ sau khi học xong ở lại làm việc cho các cơ sở sản xuất, nghiên cứu ở nước ngoài. Họ chưa ý thức được rằng, chính Họ là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển đất nước. Chúng ta dù ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, dù ở bất cứ vị trí công việc nào, hãy luôn khát khao cống hiến cho đất nước bằng những việc làm cụ thể. Thay vì than phiền vì những điều chưa hài lòng, chúng ta hãy khơi dậy lòng tự tôn dân tộc, niềm đam mê và ý chí quyết vươn lên, không ngại khó, ngại khổ để đưa đất nước tiến nhanh, tiến kịp với các nước phát triển. Khi ấy, chúng ta có niềm tin vững chắc rằng, đất nước sẽ không quên những đóng góp của người trẻ. Hàn Quốc cũng từng trải qua giai đoạn khó khăn như chúng ta, nhưng họ có một thế hệ các nhà khoa học trẻ biết hy sinh lợi ích cá nhân, đã nỗ lực không biết mệt mỏi cho sự thịnh vượng của đất nước. Điều kỳ diệu đã đến với đất nước xứ Hàn không phải từ may mắn mà bằng sự hy sinh của cả một thế hệ trẻ đầy nhiệt huyết và quyết tâm.


Thứ hai, nhiều chính sách và cách quản lý khoa học công nghệ, đặc biệt là cơ chế quản lý tài chính hiện nay còn nhiều bất cập, làm giảm nhiệt huyết nghiên cứu khoa học của nhà khoa học trẻ.

Cơ chế xét duyệt, nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học các cấp ở nhiều nơi chưa minh bạch và còn mang nặng tính xin- cho; cơ chế này làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của đề tài, làm giảm niềm tin và sự nhiệt huyết của các nhà khoa học trẻ trong việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học công nghệ của địa phương và đất nước. Nhiều nhà khoa học, đặc biệt là các nhà khoa học trẻ không muốn thực hiện các đề tài khoa học công nghệ vì rất sợ những thủ tục rườm rà trong xét duyệt, thanh toán. Có lẽ nguyên nhân của những thủ tục này xuất phát từ niềm tin giữa nhà quản lý và nhà khoa học. Bản chất của nghiên cứu khoa học là sự chính xác, minh bạch và khách quan. Trong khi đó, cơ chế quản lý khoa học hiện này còn nhiều điều chưa rõ ràng là điều khó có thể chấp nhận được. Vì vậy, các bộ, ban ngành liên quan cần phối hợp chặt chẽ để có một quy trình quản lý các hoạt động khoa học và công nghệ hiệu quả theo hướng minh bạch. Cần xóa bỏ hẳn cơ chế xin - cho trong hoạt động khoa học công nghệ, để các nhà khoa học trẻ được tiếp cận với các đề tài khoa học một cách bình đẳng, để họ được “làm thật, ăn thật” và tạo ra những sản phẩm hữu ích cho đất nước. Để tạo ra những sản phẩm có thể ứng dụng vào thực tế, cần phải có cơ chế khoán sản phẩm cho các nhà khoa học. Chất lượng sản phẩm cuối cùng của một đề tài nghiên cứu khoa học sẽ là thước đo quan trọng nhất. Làm được những điều này, các nhà khoa học trẻ sẽ mạnh dạn hơn trong việc tham gia thực hiện các nhiệm vụ khoa học công nghệ của nước nhà.


Thứ ba, các chính sách thu hút và trọng dụng nhà khoa học trẻ chưa thực sự hiệu quả.

Các bộ, ngành và địa phương trong thời gian qua đã có nhiều chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, các chính sách vẫn mang nặng tính hính thức, chắp vá, không đồng bộ, chưa đi vào thực tế, dẫn đến hiệu quả thu hút và trọng dụng chưa cao. Nhà khoa học trẻ chưa được sắp xếp, bố trí đúng vị trí công việc; chưa có chế độ đãi ngộ thích đáng; chưa có điều kiện làm việc tốt và chưa nhận được những cơ chế khuyến khích sáng tạo để họ có thể hết mình vì khoa học. Nhà khoa học trẻ khó có thể sáng tạo ra những sản phẩm hữu ích khi còn đó nỗi lo cơm, áo, gạo tiền và nhiều điều băn khoăn khác. Để khắc phục tình trạng này, đất nước cần thực sự cầu thị trong việc trọng dụng các nhà khoa học trẻ, phải coi họ là nguồn lực quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Sự cầu thị, chân thành thể hiện bằng việc làm cụ thể chứ không chỉ là lời nói, sẽ là yếu tố quyết định tới sự thành công trong công tác thu hút và sử dụng các nhà khoa học trẻ. Nếu đã thực sự coi các nhà khoa học trẻ tài năng là nguồn lực quan trọng, thì nhà nước cần phải có những chính sách cụ thể, nhất quán và ổn định; bố trí công việc phù hợp với năng lực, sở trường, sở thích của từng người; có điều kiện làm việc tốt, môi trường làm việc cởi mở, thân thiện và công bằng; và có chế độ đãi ngộ xứng đáng với năng lực. Bên cạnh đó, cần tin tưởng và giao những nhiệm vụ khoa học công nghệ quan trọng của địa phương, đất nước cho nhà khoa học trẻ. Đối với các nhà khoa học trẻ tài năng đang học tập, công tác ở nước ngoài, nhà nước cũng cần có những chính sách trọng dụng cụ thể để thu hút họ về làm việc trong nước.

Một số công việc cụ thể cần phải làm để trọng dụng nguồn lực quan trọng này là: xây dựng cơ chế cụ thể, rõ ràng, nhất quán; tạo một ngân hàng các nhà khoa học tài năng đang công tác ở nước ngoài trong các lĩnh vực khác nhau; thành lập viện nghiên cứu, trường đại học mang tầm cỡ quốc tế để đào tạo và nghiên cứu những lĩnh vực đất nước đang cần; và ngỏ lời mời chính thức đối với các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài, theo từng lĩnh vực về nước làm việc tại những cơ sở này. Những đơn vị này sẽ trở thành những đầu tàu về đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Về phía tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, cần có những việc làm cụ thể để tạo điều kiện cho các nhà khoa học trẻ tài năng cống hiến cho xã hội nhiều hơn nữa. Những đóng góp của các nhà khoa học trẻ cho các hoạt động cộng động, phát triển kinh tế ở những địa phương khó khăn chưa nhiều. Do vậy, các cấp bộ Đoàn cần tổ chức nhiều hoạt động hơn nữa để cho họ cống hiến cho xã hội. Ví dụ, tổ chức cho các nhà khoa học trẻ tham gia chuyển giao công nghệ cho người dân, đoàn viên thành niên ở các địa phương khó khăn; tiếp tục có chính sách hỗ trợ, động viên, tuyên dương các nhà khoa học trẻ đến với những vùng khó khăn cống hiến.


Thứ tư, đầu tư cho khoa học còn ít và dàn trải.

Hiện nay, đầu tư cho khoa học công nghệ của nước ta còn rất ít (dưới 1% GDP), nguồn kinh phí ít ỏi này lại đang đầu tư dàn trải, cào bằng, thiếu trọng tâm, trọng điểm. Nguồn vốn này chủ yếu là từ ngân sách nhà nước, chưa phát huy được vai trò của các tổ chức xã hội trong các hoạt động khoa học công nghệ. Điều này, dẫn đến tình trạng sử dụng sai mục đích, kém hiệu quả và gây lãng phí nguồn lực cho hoạt động khoa học công nghệ. Một số nơi còn có tư duy sử dụng nguồn vốn khoa học công nghệ để nâng cao thu nhập cho cá nhân, đơn vị chứ không phải là để tạo ra những sản phẩm phục vụ phát triển đất nước. Tư duy phân bổ nguồn lực cào bằng và ít ỏi dẫn đến sản phẩm khoa học công nghệ làm ra có giá trị thấp, trùng lắp, chắp vá, đơn điệu và khó tạo nên sự đột phá.Ví dụ điển hình cho hậu quả của đầu tư dàn trải cho khoa học công nghệ là tới nay, mặc dù là một đất nước nông nghiệp, nhưng chúng ta vẫn chưa xây dựng được một thương hiệu gạo của quốc gia. Để khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, cần nâng cao năng lực nghiên cứu của các Trường đại học và các Viện nghiên cứu trọng điểm và những lĩnh vực nghiên cứu mà đất nước đang cần. Theo đó, tạo cơ chế trả lương và môi trường làm việc đặc biệt cho những cở sở này. Đi kèm theo quyền lợi là những sản phẩm mà những cơ sở này phải tạo ra theo các đơn đặt hàng của nhà nước và doanh nghiệp. Những cơ sở này phải là chỗ dựa vững chắc cho cộng đồng, doanh nghiệp trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến nâng cao đời sống, chất lượng của sản phẩm và năng lực cạnh tranh để doanh nghiệp không còn đơn độc trong giai đoạn hội nhập sâu rộng hiện nay. Bên cạnh đó, nhà nước cần khuyến khích, tạo cơ chế và có những hỗ trợ cụ thể để doanh nghiệp áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Trước hết, doanh nghiệp nhà nước đi tiên phong trong việc sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư cho phát triển bền vững doanh nghiệp thông qua nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ. Khi các doanh nghiệp nhà nước thành công sẽ tạo động lực cho các loại hình doanh nghiệp khác áp dụng khoa học công nghệ. Thông qua việc làm này sẽ tạo ra nguồn lực về tài chính lớn cho hoạt động nghiên cứu khoa học và qua đó các nhà khoa học trẻ có nhiều cơ hội hơn để thực hiện các đề tài, tạo ra sản phẩm khoa học công nghệ hữu ích.

Để các nhà khoa học trẻ đóng góp hết khả năng, trí tuệ cho sự phát triển của đất nước, cần có những sự thay đổi trong nhận thức và cách làm của chính các nhà khoa học, các nhà quản lý và các đoàn thể. Các nhà khoa học trẻ cần dấn thân, có những đóng góp cụ thể; bớt than trách, đòi hỏi để giữ ngọn lửa đam mê, lòng nhiệt huyết và sự sáng tạo không ngừng vì sự hùng mạnh của đất nước. Nhà nước cần nhận thức rõ vai trò quyết định của các nhà khoa học trẻ tài năng đối với sự phát triển của đất nước, từ đó có những chính sách cụ thể và thiết thực để thu hút, phát huy tiềm năng trí tuệ nguồn lực tiềm năng này. Các tổ chức đoàn thể cần giữ vai trò kết nối, tạo cơ hội cho các nhà khoa học trẻ được cống hiến cho những mục đích cao đẹp, mang lại cuộc sống tốt đẹp cho người dân và đất nước.
 
 TS. Nguyễn Thế Hân 
                                                                                                                                                                                                                       (Giảng viên Khoa Công nghệ Thực phẩm, Phó Bí thư Đoàn Trường Đại học Nha Trang
Giải thưởng KHCN Thanh niên Quả Cầu Vàng năm 2014)


 


Tags

Bình luận


Tiêu điểm

Video nổi bật

×